1. Quy luật nhận biết: Một quy luật tưởng chừng như đơn giản nhất nhưng
lại rất quan trọng. Trí nhớ càng sâu sắc khi con người nắm chắc những gì
đã biệt, dễ dàng nhớ đến mức chi tiết về những điều còn đọng lại trong
đầu.
2. Quy luật hứng thú: Sự hứng thú về khẩu vị giúp trí thức bột phát tái
hiện trên màn ảnh trí tuệ như thể các nhân vật kịch xuất hiện trên sân
khấu mà không cần đền một nỗ lực đặc biệt nào.
3. Quy luật tích luỹ: Càng hiểu biết uề một vấn đề cụ thể thì con người
càng dễ dàng nhớ lại tất cả những thông tin mới phù hợp với vấn đề ấy.
Cần lưu ý là: khi mở một quyển sách ra để đọc phải coi như mới đọc lần
đầu. Bởi lẽ khi ta đọc lần đầu, ta chưa có được những thông tin, những
kiến thức cần thiết cho nhu cầu tìm hiểu. Đọc lần đầu là công việc tích
luỹ. Đọc lần sau là mới có sự điều chỉnh mới. Đây là mối quan hệ giữa
vốn cũ với hiểu biết mới là công việc để trí nhớ hoá kiến thức.
4. Quy luật nhớ có ý thức: Việc chuẩn bị để trì nhớ hoá là quan trọng.
Người đọc hệ thống hoá thông tin từ các sách vở các tài liệu. Xuất phát
từ sách vở để khai thác thông tin. Thông tin là con đẻ của sách vở. Đây
là cách làm cho bộ nhớ vững bền. Thông thường khi ta muốn nhớ lại điều
gì đã xa xưa thì những chi tiết cụ thể dễ nhớ hơn là những điều tóm tắt.
5. Quy luật liên kết: Quy luật này được Aristot phát hiện từ thê kỷ thứ 4
trước công nguyên. Những khái niệm khoa hạc thường phát sinh do sự mời
chào lẫn nhau giá cái nọ với cái kia trong kho tri thức của bộ óc và
chúng liên kết với nhau để phát kiến ra những khái niệm. Chẳng hạn, cảnh
quan của một cǎn phòng gợi nhớ các sự kiện đã xảy ra trong đó (hoặc nhớ
lại những điều gì anh đã đọc ở đó và cái ấy lại tái hiện đúng hẹn theo
nhu cầu ta cần nó).
6. Quy luật nối tiếp liên tục: Ta có thể đọc dễ dàng hệ thống chữ cái
khi đọc xuôi nhưng thật khó khǎn khi đọc ngược. Những tri thức khoa học,
những khái niệm có được là do từng sự nối tiếp cụ thể. Do vậy khi muốn
nhớ lại phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh nối tiếp cụ thể mà ta đã
tích luỹ được.
7. Quy luật ấn tượng mạnh mẽ. Thông thường sức mạnh của ấn tượng đầu
tiên về một cái gì đều tồn tại ở trong trí nhớ. Â'n tượng càng mạnh thì
hình ảnh càng sáng. Càng có nhiều kênh thông tin thì càng tạo ra sức
mạnh duy trì những thông tin ấy. Vì thế cần lưu giữ tất cả những ấn
tượng ban đầu mà mạnh nhất có quan hệ đến vấn đề ta có nhu cầu nghiên
cứu.
8. quy luật kiểm tra: Hệ quả của trí nhớ hoá là công việc kiểm tra sự
hiểu biết trước đây khi tìm hiểu các thông tin mới. Tỷ trọng khối lượng
của các thông tin cũ phải được xử lý ổn định trước khi tiếp nhận các
thông tin mới. Cách tốt nhất để "Vật chất hoá" các tri thức trong bộ nhớ
là ghi nhớ có hệ thống những hiện tượng, sự kiện của cái cũ đang ở thế
phát triển
lại rất quan trọng. Trí nhớ càng sâu sắc khi con người nắm chắc những gì
đã biệt, dễ dàng nhớ đến mức chi tiết về những điều còn đọng lại trong
đầu.
2. Quy luật hứng thú: Sự hứng thú về khẩu vị giúp trí thức bột phát tái
hiện trên màn ảnh trí tuệ như thể các nhân vật kịch xuất hiện trên sân
khấu mà không cần đền một nỗ lực đặc biệt nào.
3. Quy luật tích luỹ: Càng hiểu biết uề một vấn đề cụ thể thì con người
càng dễ dàng nhớ lại tất cả những thông tin mới phù hợp với vấn đề ấy.
Cần lưu ý là: khi mở một quyển sách ra để đọc phải coi như mới đọc lần
đầu. Bởi lẽ khi ta đọc lần đầu, ta chưa có được những thông tin, những
kiến thức cần thiết cho nhu cầu tìm hiểu. Đọc lần đầu là công việc tích
luỹ. Đọc lần sau là mới có sự điều chỉnh mới. Đây là mối quan hệ giữa
vốn cũ với hiểu biết mới là công việc để trí nhớ hoá kiến thức.
4. Quy luật nhớ có ý thức: Việc chuẩn bị để trì nhớ hoá là quan trọng.
Người đọc hệ thống hoá thông tin từ các sách vở các tài liệu. Xuất phát
từ sách vở để khai thác thông tin. Thông tin là con đẻ của sách vở. Đây
là cách làm cho bộ nhớ vững bền. Thông thường khi ta muốn nhớ lại điều
gì đã xa xưa thì những chi tiết cụ thể dễ nhớ hơn là những điều tóm tắt.
5. Quy luật liên kết: Quy luật này được Aristot phát hiện từ thê kỷ thứ 4
trước công nguyên. Những khái niệm khoa hạc thường phát sinh do sự mời
chào lẫn nhau giá cái nọ với cái kia trong kho tri thức của bộ óc và
chúng liên kết với nhau để phát kiến ra những khái niệm. Chẳng hạn, cảnh
quan của một cǎn phòng gợi nhớ các sự kiện đã xảy ra trong đó (hoặc nhớ
lại những điều gì anh đã đọc ở đó và cái ấy lại tái hiện đúng hẹn theo
nhu cầu ta cần nó).
6. Quy luật nối tiếp liên tục: Ta có thể đọc dễ dàng hệ thống chữ cái
khi đọc xuôi nhưng thật khó khǎn khi đọc ngược. Những tri thức khoa học,
những khái niệm có được là do từng sự nối tiếp cụ thể. Do vậy khi muốn
nhớ lại phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh nối tiếp cụ thể mà ta đã
tích luỹ được.
7. Quy luật ấn tượng mạnh mẽ. Thông thường sức mạnh của ấn tượng đầu
tiên về một cái gì đều tồn tại ở trong trí nhớ. Â'n tượng càng mạnh thì
hình ảnh càng sáng. Càng có nhiều kênh thông tin thì càng tạo ra sức
mạnh duy trì những thông tin ấy. Vì thế cần lưu giữ tất cả những ấn
tượng ban đầu mà mạnh nhất có quan hệ đến vấn đề ta có nhu cầu nghiên
cứu.
8. quy luật kiểm tra: Hệ quả của trí nhớ hoá là công việc kiểm tra sự
hiểu biết trước đây khi tìm hiểu các thông tin mới. Tỷ trọng khối lượng
của các thông tin cũ phải được xử lý ổn định trước khi tiếp nhận các
thông tin mới. Cách tốt nhất để "Vật chất hoá" các tri thức trong bộ nhớ
là ghi nhớ có hệ thống những hiện tượng, sự kiện của cái cũ đang ở thế
phát triển