Vui lòng khai báo chính xác tên truy cập và mật khẩu!

Quên mật khẩu?
Sau khi đăng ký xong vui lòng vào
thông tin cá nhân ở phần menu bên
góc phải diễn đàn để cập nhật thông tin !

Bạn phải điền đầy đủ thông tin đăng ký!

  

xqnoel

    [Truyện dài tập] Tầng Đầu Địa Ngục

      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #1

       29/7/2011, 10:15

      First topic message reminder :

      Tác Giả: Aleksandr I. Solzhenitsyn



      Và anh là ai?
      Đôi kim đồng hồ chỉ bốn giờ năm phút.
      Trong ánh sáng hấp hối của một ngày tháng Chạp, mặt đồng của chiếc đồng hồ đặt trên giá trông như có màu đen.
      Hai cánh cửa kiếng của khung cửa sổ cao nhìn xuống dãy phố đông đảo, nhộn nhịp bên dưới, nơi những người gác cửa đang dồn những mảnh tuyết nâu lại thành từng đống, tuyết tuy mới rơi nhưng đã ướt và dơ bẩn, những cây cào gỗ đẩy tuyết ngay dưới chân những người qua đường.
      Innokenty Volodin, cố vấn Quốc gia đệ nhị, nhìn ngây xuống cảnh đó nhưng không ghi nhận gì hết, chàng đứng dựa vài vào thành cửa sổ, miệng khẽ huýt gió một điệu nhạc mệt mỏi. Những ngón tay chàng lật mở từng từ giấy trắng bóng, in sặc sỡ nhiều màu của một tập san ngoại quốc. Nhưng mắt chàng cũng không nhìn thấy những hình ảnh in trên những trang báo đó.
      Cố vấn Quốc gia đệ nhị hạng Innokenty Volodin, chức vụ này của chàng trong ngành ngoại giao tương đương với cấp Trung tá trong quân đội, là một thanh niên cao và mảnh mai. Không bận đồng phục và bận bộ y phục may bằng một thứ hàng len dệt, trông chàng có vẻ là một công tử hào hoa hơn là một viên chức trung cấp trong Bộ Ngoại giao.
      Bây giờ đã đến lúc chàng phải bật đèn trong văn phòng nếu chàng muốn ở lại làm việc ngoài giờ, nhưng chàng không bật đèn, hoặc rời văn phòng để về nhà. Chàng cũng không để lộ vẻ gì là sửa soạn ra về.
      Bốn giờ chiều không có nghĩa là giờ làm việc trong ngày đã hết, bốn giờ chiều chỉ có nghĩa là ánh sáng của một ngày đã tắt, hoặc mờ đi, vào giờ nay tất cả mọi người đều về nhà ăn bữa tối để rồi bắt đầu từ mười giờ đêm, cả ngàn khung cửa sổ của sáu mươi nhăm cơ quan chính phủ ở Mạc Tư Khoa lại sáng đèn. Chỉ có một người, một người mà thôi, sống ở giữa khoảng một tá tường thành ở Mạc Tư Khoa, không ngủ được ban đêm, và người này đã làm cho tất cả những viên chức chính phủ lớn nhỏ ở Mạc Tư Khoa cũng phải thức với y cho tới ba, bốn giờ sáng. Vì đã biết rõ thói quen thức đêm của Vị Chúa Tể, đêm nào cũng vậy, khoảng ba mươi ông Tổng trưởng ngồi như những chú học trò được gọi đến tên. Để cho khỏi buồn ngủ, những ông Tổng trưởng này hành hạ những ông phụ tá, những ông phụ tá hành hạ những ông trưởng phòng và những nhân viên phụ trách lưu trữ hồ sơ vất vả leo lên những bậc thang mở những ô kéo tìm những tấm phiếu lý lịch hồ sơ, trong hành lang có những viên thư ký hấp tấp đi lại và trong văn phòng có những viên thư ký hồi hộp làm gãy những ngọn viết chì.
      Và ngay cả hôm nay nữa, đêm nay là đêm Giáng sinh Tây phương, từ hai ngày nay tất cả những Tòa đại sứ ở Mạc Tư Khoa đều đóng cửa, tê cứng trong cái lạnh đêm cuối năm, trong những Tòa đại sứ ấy tất cả những máy điện thoại đều ngừng reo chuông, và ngay trong phút này, nhân viên của những Tòa đại sứ ấy chắc là đang thoải mái ngồi chung quanh những cây Giáng sinh, trong những cơ quan chính phủ này người ta vẫn làm việc. Nhiều người ngồi đánh cờ, nhiều người ngồi khảo chuyện phiếm, nhiều người khác nữa ngủ gật – nhưng đêm nay, người ta vẫn là làm việc.
      Những ngón tay bối rối, hơi run của Volodin lơ đãng lật nhanh những trang tập san. Suốt trong thời gian đó cảm giác sợ hãi dâng lên trong chàng, nó bốc lên như lửa một lúc rồi tàn đi và sau cùng, đông lại.
      Từ ngày còn thơ ấu, Innokenty đã biết bác sĩ Dobroumov, chàng vẫn nhớ rõ hình ảnh của ông từ ngày đó cho đến bây giờ. Thời ấy bác sĩ Dobroumov hãy còn là một ông thầy thuốc rất thường, danh tiếng ông chưa nổi sáng và người ta chưa cử ông cầm đầu những phái đoàn đi ra ngoại quốc. Thời ấy, chưa ai coi ông là khoa học gia, ông chỉ là một ông thầy thuốc đi chữa bệnh tận nhà. Mẹ của Innokenty thường đau yếu luôn và lần nào có bệnh bà cũng mời đến bác sĩ Dobroumov. Bà tin ở tài ăng và kinh nghiệm của ông. Mỗi lần ông đến nhà và treo cái mũ da của ông lên mắc dsau cánh cửa, cả nhà như tràn dầy một làn không khí dễ chịu bình yên, tin tưởng. Không lần nào ông ngồi lại dưới nửa tiếng đồng hồ bên cạnh giường người bệnh. Ông hỏi về tất cả những khó chịu, những đau đớn của người bệnh, như những chuyện đó làm cho ông hài lòng, ông xem mắt, xem lưỡi, nghe ngực người bệnh và sau đó ông giải thích cho người bệnh nghe về phương pháp điều trị mà ông áp dụng cho người bệnh. Khi đi ra khỏi nhà, lần nào đi ngang trước mặt chú nhỏ ông cũng dừng lại để hỏi một câu, chú nhỏ sẽ nói ra một câu thông minh. Trong những ngày xa xưa đó, ông bác sĩ đã có mái tóc bạc xám. Bây giờ không biết ông ra sao?
      Innokenty liệng tập bào xuống bàn và thần kinh chàng căng thẳng, bối rối, khó nghĩ, chàng đi đi lại lại trong phòng.
      Chàng có nên gọi điện thoại hay không?
      Nếu vụ này liên can đến những bác sĩ mà chàng không đích thân quen biết, Innokenty sẽ không phải bận trí suy nghĩ đến hai lần về việc nên hay không báo cho người trong cuộc biết. Nhưng người trong cuộc lại là bác sĩ Dobroumov!
      Có thể có cách nào làm người ta nhận ra được giọng của một người qua ống điện thoại nếu người nói nói thật nhanh, gác máy và đi ngay khỏi chỗ đặt máy điện thoại? Họ có thể nhận ra tiếng nói của một người qua điện thoại không? Chắc là họ chưa có kỹ thuật nào dùng vào việc này.
      Chàng đi trở lại bàn giấy của chàng. Trong bóng tối của ngày đông tàn chàng vẫn nhìn thấy rõ tập chỉ thị mật về công tác mới mà chàng sắp phải làm. Chàng sẽ đi trước ngày đầu Năm mới, vào thứ Tư hay thứ Năm gì đó.
      Nếu chàng đợi thì hợp lý hơn. Chàng cũng sẽ khôn ngoan hơn nếu chàng đợi.
      Trời ơi! Hai vai chàng rung động trong một cái rùng mình, vai chàng chưa bao giờ bị đè nặng như thế này. Nếu chàng đừng biết gì hết về vụ này, chàng sẽ đỡ khổ biết là chừng nào. Nếu chàng đừng biết…


      Được sửa bởi Đại ka Forum ngày 29/7/2011, 14:10; sửa lần 1.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #26

       29/7/2011, 10:32

      Những tên Phát xít lười biếng đang sống nằm tù thứ tư sau chiến tranh ấy không muốn làm bất cứ một việc gì. Trước mắt những người Nga, cảnh bọn tù binh Đức chuyển những viên gạch từ trên những chiếc xe vận tải xuống là một cảnh chướng mắt chịu không nổi: chúng xếp hàng một từ xe vào đến chỗ xếp gạch, chúng chuyền tay nhau từng viên gạch chậm chạp, cẩn thận, như đó là những khối vàng nén. Chúng cố tình làm chậm như thế và chúng chỉ chuyển hết số gạch trên một chiếc xe xuống là hết ngày. Trong lúc những công nhân đặt máy thông hơi, máy sưởi ở cửa sổ và lát ván lại những căn phòng trong nhà, bọn tù binh Đức đi lang thang khắp nhà, chúng vào cả những căn phòng tối mật và đứng nhìn những thùng đồ ghi chữ Đức và chữ Anh. Bất cứ một chú học sinh người Đức nào cũng có thể đoán biết phòng thí nghiệm gì được lập lên ở đó. Rubin đã ghi tất cả những chi tiết này trong một bản báo cáo gửi đến đại tá kỹ sư Yakonov, báo cáo này ghi nhận đúng nhưng cũng rất phiền cho hai sĩ quan phụ trách an ninh ở đây – Shikin và Myshkin – (bọn tù nhân gọi hai nhân vật này bằng cái tên chung là Shishkin và Myshkin) – bởi vì lúc đó, người ta chẳng còn sửa chữa gì được nữa. Họ không thể gửi báo cáo đó lên thượng cấp vì sự sơ xuất đó là lỗi của họ. Và đến lúc đó bọn tù binh Đức đã được trở về Đức quốc. Yakonov rùng mình kinh sợ khi nghĩ rằng nếu trong bọn tù binh ấy có tên nào trốn sang Tây Đức, tên đó sẽ có thể kể lại vị trí Viện Nghiên cứu này với bọn gián điệp đế quốc tư bản. Sau đó, những biện pháp bảo vệ bí mật đến tối đa được áp dụng ở Mavrino: tù nhân làm việc ở phòng thí nghiệm này không được đặt chân sang phòng thí nghiệm khác, các tù nhân không được tiết lộ những công tác nghiên cứu với nhau, trừ khi nào được ban giám đốc cho phép. Việc Yakonov được cử đi điều Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino cũng được giữ kín ở Tổng bộ An ninh. Ở trong Bộ, hỏi đến đại tá kỹ sư Yakonov đều được yêu cầu ghi tên, cấp bậc và lý do cần gặp lên giấy và sẽ được trả lời sau. Nếu cần phải gặp những người này, bao giờ Yakonov cũng về Bộ để gặp. Y không tiếp bất cứ ai ở Mavrino.
      Khi bọn tù bình Đức được gửi về nước, họ đưa tới Mavrino đám tù khác để làm lao công. Đám tù này giống hệt những tù nhân làm việc chuyên môn trong việc trừ điểm quần áo của họ dơ dáy hơn, rách rưới hơn và họ không được quyền ăn bánh mì trắng. Đám tù Nga này làm việc khác hẳn bọn tù binh Đức: họ vừa làm việc vừa chửi rủa tục tĩu những viên gạch bay tới tấp từ trên xe vận tải xuống sân và kết quả là gần như không còn viên gạch nào lành lặn hoàn toàn. Với tiếng: “Một… hai… ba…” bọ tù Nga quăng tấm mui xe bằng vải bạt chùm lên xe và chúng chui và đó để đi về nhà giam, trên đường đi chúng đùa giỡn với những nữ tù nhân. Buổi sáng chúng được đưa đến làm việc, buổi chiều đưa trả về nhà giam.
      Và tòa lâu đài huyền diệu đó, nằm riêng rẽ ở một khu ngoài thành phố, một khu tuy không thấy có gì khác lạ nhưng bọn thường dân không dám tới gần, được thay đổi gần như toàn diện: lâu đài có một bồn chứa nước, một hệ thống đốt rác tối tân, một nhà máy điện riêng, những căn phòng cửa sắt được sưởi ấm vào mùa đông và những bồn hoa tươi trong vườn cỏ.
      Cũng trong thời gian đó, Viện Nghiên cứu khoa học được ưu đãi đặc biệt này mỗi ngày một phát triển lớn hơn, đông nhân viên hơn. Viện tiếp nhận cả một Viện Nghiên cứu khác với toàn thể nhân viên của viện này. Đó là Viện Nghiên cứu được trao cho thiếu tá kỹ sư Roitman chỉ huy. Viện này cũng được lập lên để nghiên cứu về điện thoại và truyền tin. Thiếu tá kỹ sư Roitman trở thành vị phụ tá của đại tá kỹ sư Yakonov. Người khai sinh và bảo vệ Viện Nghiên cứu bị sáp nhập này là đại tá Yakov Ivannovich Mamurin, nguyên Trưởng Sở Liên lạc đặc biệt và nguyên là một viên chức cao cấp, quan trọng của chính phủ Xô Viết. Trước đó ít lâu, đại tá Mamurin đã biến mất trong trường hợp bi thảm như sau này.
      Số là có một lần vị lãnh đạo Nguyên liệu tiến bộ nói chuyện bằng điện thoại với một người ở tỉnh Yenan và Lãnh Tụ bất mãn vì đường dây rè rè khó nghe, khó nói quá. Người bèn gọi Beria tới và nói bằng tiếng địa phương Georgian: “Lavrety… Anh để cho thằng ngu nào giữ Sở Liên lạc đặc biệt vậy? Tống cổ nó đi”.
      Và như thế là Mamurin bị tống đi. Bị tống đi có nghĩa là đi tù. Họ giam Mamurin vào nhà tù Lubyanka. Họ tống y đi nhưng họ không biết sau đó phải giải quyết tình trạng của y ra làm sao, phải đối xử với y như thế nào. Họ không có chỉ thị phải làm về vụ Mamurin, không có lệnh phải xử tù Mamurin và nếu xử tù thì cho tù bao nhiêu năm. Nếu Mamurin không phải là anh em đồng chí của họ, họ đã xử y “một phần tư thế kỷ và năm năm khóa mõm”, nghĩa là tù khổ sai hai mươi lăm năm và năm năm mất quyền công dân, và tống y đi Norilsk. Nhưng họ bị ám ảnh bỏi lời nguyền: “Hôm nay tôi, mai đến bạn”, những người bạn đồng nghiệp cũ của Mamurin ngấm ngầm ủng hộ y. Khi họ biết chắc rằng Stalin đã quên Mamurin, họ dàn xếp cho Mamurin đến sống ở Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino.
      Vì vậy, trong một đêm mùa hạ năm 1948, họ đưa một tù nhân mới đến Mavrino. Tất cả mọi sự kiện liên can đến tù nhân này đều khác thường: Y được đưa tới trên một chiếc xe hơi du lịch chứ không phải trên một chiếc xe Maria Đen như tất cả những tù nhân khác. Y được viên quản đốc nhà tù đích thân đi đón về, và y được mời ăn bữa đầu tiên trong nhà tù ở trong văn phòng của viên quản đốc, bàn ăn của y đêm đó có trải khăn trắng đàng hoàng.
      Những tù nhân có trước trong nhà tù này nghe biết – trên nguyên thể, họ không được nghe, thấy biét gì hết nhưng trên thực tế, họ vẫn nghe, vẫn thấy và vẫn biết hết mọi chuyện – tù nhân mới đến này nói rằng y không thích ăn xúc xích và viên quản đốc lễ phép mời y chịu khó ăn nhiều cho khỏe. Một tù nhân bị đau trên đường đi tới phòng khám bệnh nghe lỏm được những lời trao đổi này. Anh trở về kể sự lạ ấy với các bạn và đám tù nhân bán tán xôn xao một lúc về sự lạ ấy. Họ đi đến kết luận là dù sao đi nữa, kẻ mới đến cũng chỉ là một anh tù. Sau đó, họ ngủ.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #27

       29/7/2011, 10:32

      Những sử gia của Nhà tù đặc biệt Mavrino không bao giờ xác định được rằng đêm đầu tiên ấy kể mới đến ngủ ở đâu. Sáng sớm hôm sau, ở một khu mà các tù nhân bị cấm không được đặt chân đến, một tù nhân chuyên viên thợ tiện, tình cờ chạm trán với một kẻ mới đến trong đêm qua.
      "Ê bạn…" - người tù thợ tiện hỏi vội với ngón tay thô chọc mạnh vào ngực kẻ mới tới – "Bạn từ đâu đến? Bị vồ ở đâu? Vì sao? Ngồi đây, hút thuốc không?"
      Nhưng kẻ mới đến lùi xa người tù thợ tiện với vẻ kinh hãi khinh mạng hiện rõ trên mặt. Người tù thợ tiện trợn mắt nhìn cái đầu hói và đôi mắt trắng của kẻ mới đến, anh giận dữ nói:
      "Đồ phách chó. Để rồi khi anh vào ở chung với chúng tôi anh có chịu nói chuyện với chúng tôi hay không."
      Nhưng “Phách chó” không bị nhốt vào phòng ngủ chung với tù nhân. Bên cạnh hành lang đưa tới những phòng thí nghiệm, ở tầng thứ ba, ban quản đốc làm được cho y một căn phòng nhỏ, trước đây phòng này được dùng làm phòng tối rửa hình, họ khiêng vào đó một cái giường, một cái bàn, một cái tủ, một chậu cây cảnh và một cái bếp điện. Họ gỡ những tám ván ra khỏi khung cửa sổ, cửa sổ này không mở ra ngoài trời mà là nhìn ra một cầu thang nhỏ. Vì vậy ngay cả những buổi trưa trời nắng nhất, ánh sáng cũng không lọt được tới khung cửa sổ căn phòng nhỏ này. Cửa sổ còn có chắn song sắt. Những chấn song này có thể gỡ ra được nhưng ban quản đốc nhà thù, sau nhiều do dự, quyết định để nguyên. Những người có quyền ở đây cũng không ai hiểu rõ về tình trạng rắc rối bao quanh tù nhân này và họ cũng không biết phải xử sự làm sao cho đúng.
      Từ đó, tù nhân mới tới được đặt tên là “Người mặt nạ sắt”. Trong một thời gian rất lâu sau đó không ai biết tên y là gì. không ai có thể nói chuyện được với y. Qua khung cửa sổ, những tù nhân đi lại trên cầu thang nhỏ trông thấy y ngồi cúi đầu trong căn phòng cô đơn, hoặc đi vất vưởng như bóng một cô hồn dưới hàng cây đề trong những giờ tù nhân bị cấm ra khỏi phòng giam. Mặt nạ sắt cũng gầy gò, xanh xao như bất cứ một tù nhân nào sau hai năm bị giam cầm nhưng việc y từ chối không chịu ăn xúc xích cho người ta biết rằng không phải y gầy xanh vì thiếu ăn hay vì bị thẩm vấn.
      Lại qua một thời gian rất lâu sau nữa, khi Mặt nạ sắt làm việc với phòng Số bảy, tù nhân được những viên chức tự do cho biết rằng y chính là đại tá Mamurin, người khi còn là giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, đã cấm không cho bất cứ ai đi ngang cửa văn phòng của y được đặt gót giày xuống sàn, nghĩa là tất cả mọi người đi qua cửa văn phòng y đều phải đi kiễng chân, nhón gót để khỏi gây ra tiếng động. Nếu không, y sẽ từ trong phòng hầm hầm chạy ra, quát lớn: “Đồ thô tục. Có biết văn phòng ai đây không? Tên là gì?”.
      Về sau, người ta được biết rằng sự khổ sở của Mamurin thuộc về tinh thần. Thế giới những người tự do hắt hủi, chê bỏ y và y không thể gia nhập thế giới của những người bị tù đày. Thoạt đầu, trong cảnh cô đơn, y đọc sách. Y đọc những tác phẩm bất hủ như quyển Chiến đấu cho hòa bình của Panferov, quyển Chàng kỵ sĩ sao vàng của Babayevsky. Y đọc Sobolev, Nikulin, rồi đọc thơ của Prokofiev và Gribachev. Và trong tâm hồn y một sự chuyển biến kỳ diệu xảy ra: y bắt đầu làm thơ. Người ta biết rằng sự bất hạnh và tình trạng đau khổ về tinh thần thường sản xuất ra những nhà thi sĩ và sự đau khổ của Mamurin sắc nhọn hơn sự đau khổ của nhiều tù nhân khác. Sống trong nhà tù đã hai năm nhưng không bị thẩm vấn cũng không bị đưa ra tòa xử, không có án, y vẫn sống giống hệt như y sống trước khi bị tù, nghĩa là tuân theo đúng những chỉ thị của Đảng, tôn thờ Lãnh tụ Tối cao. Mamurin thú thật với Rubin rằng không phải thức ăn trong nhà tù tồi tàn – (những bữa ăn của y được nấu riêng) – cũng không phải vì tình trạng phải xa những người thân trong gia đình – (mỗi tháng y được bí mật đưa về nhà riêng ủa y, nơi y ngủ lại một đêm) – y khổ sở và cay đắng chính là vì tình trạng Yosif Vissarionovich Stalin không còn tin cẩn y nữa. Y đau đớn vì y không còn là một vị đại tá, vì y bị thất sủng. Chính vì vậy mà những người như Rubin và Mamurin sống khổ sở trong tù hơn là những người tù khác thù hận, chống đối chế độ.
      Cơ quan là một đảng viên Cộng sản. Nhưng sau khi nghe những lời thở than, tâm sự của Mamurin và nhất là sau khi đọc tập thơ của Y. Rubin trở thành lẩn tránh y. Rubin vui vẻ sống với những người chỉ trích anh một cách bất công nhưng chịu chung cảnh ngộ với anh.
      Về phần Mamurin, y bị thôi thúc vì một ý muốn, ý muốn này cũng làm cho y nhức nối, khó chịu như những cơn đau răng da diết: ý muốn chứng tỏ giá trị con người của y qua việc làm. Nhưng than ôi, những hiểu biết chuyên môn của Mamurin về liên lạc và truyền tin, mdà y từng là một viên chức cao cấp trong ngành, chỉ là việc nhấc ống điện thoại lên quay số và nói. Do đó y không sao có thể tự y làm việc được, y chỉ có thể sai khiến người khác làm việc mà thôi. Nhưng việc điều khiển một dự án nào đó do dự án của người khác làm việc ra không bao giờ có thể làm cho y chiếm lại được sự tin cẩn của Người Bạn Thân Nhất của công nhân truyền tin [3] , y cần phải nghĩ ra một dự án riêng để đệ trình lên Lãnh tụ.
      Trong thời gian Mamurin phát minh ra được điều này, Viện Nghiên cứu Mavrino đang sửa soạn thực hiện hai dự án đáng kể, hứa hẹn nhiều vinh quang. Đó là dự án chế tạo máy Vocoder, một máy đo tiếng nói, và thiết lập Phòng Nghiên cứu số Bảy.
      Vì những nguyên nhân sâu xa nhưng vô lý nào đó, người ta thường có cảm tình hay ác cảm với nhau, chịu nhau hay không sao chịu nổi nhau, ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên, từ cái nhìn thấy mặt nhau thứ nhất. Yakonov và Roitman có ác cảm với nhau và không chịu nhau. Thời gian trôi quan, sự ác cảm này càng nặng nề, họ như hai con vật cùng bị một bàn tay mạnh hơn đưa vào kéo chùng một cái gông, họ như hai con ngựa bị ghép chung vào một cái xe, hai con ngựa không sao thoát ra được nhưng kéo đi về hai hướng khác nhau. Khi công tác chế tạo máy điện thoại bí mật được thực hiện ở Mavrino, Roitman quy tụ tất cả những tù nhân chuyên viên xuất sắc mà y có thể quay tụ được vào làm việc trong Phòng Âm thính. Để trả đũa, Yakonov cũng nhặt nhạnh tất cả những chuyên viên tài giỏi trong nhà tù về làm vệic trong Phòng số bảy do y lập ra và điều khiển. Yakonov còn đêm tất cả những dụng cụ khoa học tốt nhất tập trung về Phòng số bảy. Trong trận tranh chấp quyết liệt và tàn nhẫn này, Roitman có vẻ yếu thế hơn.
      Yakonov bắt buộc phải lập lên Phòng Nghiên cứu số bảy vì y không thể để cho Roitman làm hết mọi việc ở ngay thiết bị Viện Nghiên cứu mà y được cử làm giám đốc. Y phải chứng tỏ cho thượng cấp biết là y mẫn cán, y có khả năng. Kể từ ngày đó Yakonov có thể có mặt trong Viện ban đêm hay không tùy ý. Và người tù cô đơn với đôi mắt nhiều tròng trắng hơn tròng đen, viên cựu đại tá từng giữ chức giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, người tù từ chối không chịu ăn uống, tạm đè nén hứng thơ để làm việc như một tên nô lệ cho đến hai giờ sáng trong Phòng số bảy. Chỉ có một mình Mamurin có thể làm việc được nhiều giờ như thế vì ý là tù nhân duy nhất không bị viên chức canh gác trong nhà tù này.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #28

       29/7/2011, 10:32

      Số bảy
      Không ai nói cho những người lính chiến trên mặt trận biết rằng những vị tướng tư lệnh dự định những gì, đặt kế hoạch ra sao nhưng luôn luôn họ biết, họ biết rõ, biết đúng nữa là khác, đơn vị của họ ở trong mũi dùi tấn công chính hay là ở cạnh sườn. Cũng giống như thế, ba trăm tù nhân chuyên viên sống trong Viện Mavrino biết rằng Phòng số bảy là nơi quan trọng nhất của Viện.
      Không một tù nhân nào trong Viện được quyền biết về những việc làm trong Phòng số bảy nhưng trên thực tế, tất cả mọi người đều biết. Công tác chính của Phòng số bảy là thí nghiệm và hoàn thành một máy điện thoại đặc biệt cho Lãnh tụ Tối cao dùng. Đái khái người ta hiểu là tiếng nói vào máy này sẽ bị chia cắt thành những âm thanh hỗn độn, những âm thanh này sẽ được kết tụ lại do một cái máy kách và trở lại thành tiếng nói như khi mới được phát ra. Để làm việc này người ta bắt chwocs những dàn máy radio đã được chế tạo của người Hoa Kỳ song người ta vẫn cứ cố tình coi đó là những gì do các kỹ sư điện tử Nga chế ra. Những đặc san và những quyển sách giải thích về vô tuyến truyền thanh, trong có những họa đồ, mẫu đồ được bán đầy những tiệm sách cũ ở New York được người ta ở đây đóng bìa da, đánh số, coi là tài liệu tối mật, được cất kỹ trong những tủ sắt kiên cố để ngăn không cho bọn… gián điệp Mỹ lấy trộm.
      Trong những cơ sở cưỡng bách lao động như Viện Mavrino, thông lệ đã có và ai cũng biết là những khoa học gia, những chuyên viên nào thành công trong việc phát minh được một bộ máy hữu ích có thể nhận được tất cả: tự do, một sổ thông hành không ghi án tích – Gọi là Sổ thông hành sạch – một căn nhà ở Mạc Tư Khoa trong khi những người khác không nhận được gì hết, không cả một ngày giảm án, không có cả một ly vodka nhỏ uống mừng những người thành công.
      Ở đây chỉ có hai hạng người: thành công và thất bại, ở đây không có hạng người đứng giữa.
      Vì vậy, ở Viện Mavrino những người tù khôn ngoan đều tìm hết cách để được vào làm việc trong Phòng số bảy. Được vào làm việc trong phòng này họ có điều kiện để thành công.
      Kỹ sư Markushev lọt được vào Phòng số bảy với tinh thần ấy, bộ mặt ma cô thô tục của y biểu lộ ý muốn được chết vì những ý tưởng của đại tá kỹ sư Yakonov. Nhiều kẻ khác là việc ở Phòng số bảy cũng có tâm trạng giống như Markushev.
      Nhưng Yakonov cũng không phải là người ngu, y cũng chọn vào làm việc trong Phòng số bảy cả những người không muốn vào đấy làm việc. Đó là trường hợp của kỹ sư Amantai Butalov, một người dân Tatar miền Kazan mang đôi kiếng trắng lớn gọng bằng sừng trên mắt, một người đàn ông thẳng tính có giọng cười vang nhà làm cho người khác điếc tai. Butalov bị án tù mười năm vì tội để cho quân Đức bắt được trên mặt trận và chịu cộng tác với kẻ thù nhân dân là Musa Djalil. Người thứ hai không muốn nhưng vẫn bị Yakonov đưa vào Phòng số bảy là Andrei Andreyevich Potapov, một chuyên viên siêu cao điện áp từng dự phần xây cất nhiều nhà máy điện lớn. Potapov tới Viện Mavrino vì lỗi lầm của một viên thư ký ngu dốt giữ việc sắp xếp những phiếu di chuyển tù nhân. Xong vì là một công nhân yêu việc làm và là một kỹ sư có lương tâm nhà nghề, Potapov thích hợp rất nhanh với cuộc sống ở đây và anh trở thành một chuyên viên không thể thay thế được trong việc sử dụng những dụng cụ đo lường điện tử phức tạp, chính xác và tế nhị.
      Một người nữa trong nhóm người không cần xin vào làm việc ở Phòng số bảy là kỹ sư Khorobrov, một chuyên viên radio có tài. Anh được cắt vào làm việc ở Phòng số bảy ngay từ đầu, khi nó chưa phát triển lớn như bây giờ. Và trong thời gian gần đây, anh đã chán nản và không gia nhập vào cuộc hoạt động tới tấp quanh anh nữa. Cũng trong thời gian gần đây, Mamurin tỏ ra khó chịu nhiều trước thái độ của Khorobrov.
      Sau cùng, từ một trại tập trung cưỡng bách lao động tàn nhẫn nhất người ta đưa về một thiên tài điện tử u sầu tên là Bobynin. Kỹ sư Bobynin lập tức được cọi là chuyên viên số một và được đặt ở trên tất cả mọi người. Anh sắp chết ở trong trại thì được lấy ra, đem về và trong trường hợp thành công, anh là người đầu tiên có hy vọng được trả lại tự do. Vì vậy Bobynin thức làm việc đến quá nửa đêm, nhưng anh làm việc với một vẻ trịnh trọng kiêu mạn đến nỗi Mamurin phải sợ anh. Bobynin là người duy nhất làm việc ở đây mà Mamurin tránh không nói động đến.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #29

       29/7/2011, 10:33

      Phòng số bảy cũng là một căn phòng dài rồng y hệt Phòng Âm thính ở từng dưới. Phòng này cũng trang bị những dụng cụ không khác gì nhiều những dụng cụ trong Phòng Âm thính.
      Mỗi ngày Yakonov đến Phòng số bảy nhiều lần… Vì vậy sự có mặt của y ở đây không gây ra tình trạng căng thẳng khi có Xếp lớn đến thăm. Chỉ có Markushev và bọn hạ tiện cùng loại với y là tỏ ra làm việc cần mẫn hơn, chăm chú hơn khi có Yakonov tới. Riêng Potapov, anh đặt những dàn điện tử của anh lên một kệ sắt kê ở cuối phòng và kệ sắt này trở thành bức vách ngăn anh với mọi người trong phòng. Potapov ngồi ở đó như ngồi riêng hẳn một nơi cách biệt. Anh làm việc chậm rãi, cẩn thận và đúng lúc Yakonov bước vào, anh đang chế tạo một chiếc hộp đựng thuốc lá bằng Plastic đỏ để biếu một người làm quà sinh nhật vào sáng hôm sau.
      Mamurin đứng lên chào đón Yakonov như chào đón một người ngang hàng. Y không bận bộ đồng phục màu xanh đậm của tù nhân, bộ quần áo y bận là một bộ hàng len đắt tiền, nhưng bộ đồ sang trọng này cũng chẳng làm cho khuôn mặt gầy gò và dáng người xương xẩu của y sang hơn được chút nào.
      Có một vẻ gì đó xuất hiện trên vầng trán bóng như trái banh và trên vành môi mỏng mím chặt của Mamurin cho Yakonov biết rằng y đang vui sướng:
      "Anton Nikolaich…" Mamurin nói – "Chúng ta tiến bộ nhiều lắm rồi. Đây, ông nghe… Tôi đọc cho ông nghe…"
      “Nghe” và “đọc” là hai việc thí nghiệm quan trọng được thực hiện mỗi ngày trong Phòng số bảy trong thời gian này. Không giải thích thêm nữa, Mamurin đi về cuối phòng và đứng quay lưng lại Yakonov. Y đưa ống nói lên và đọc vào đó một bài báo. Ở đầu dây đằng kia, Yakonov mắc ống nghe lên tai và chăm chú nghe. Giữa những tiếng nói the thé của Mamurin, y còn phải nghe không biết bao nhiêu tiếng động chói tai khác. Nhưng như một người mẹ âu yếm nhìn đứa con quái thai của mình, Yakonov vẫn không nhấc ống nghe ra khỏi tai, y thấy rằng những tiếng động phá hoại ấy có vẻ êm hơn, nhẹ hơn những tiếng y vừa nghe lúc trưa nay. Bài báo Mamurin đọc qua máy truyền thanh cho y nghe là một bài báo viết về sự hỗn hào của bọn lính Yugoslav gác biên giới và sự tàn ác của tên đồ tể Tito, kẻ đã biến quốc gia yêu hòa bình này thành một lò sát sinh vĩ đại [4] . Yakonov có thể dễ dàng đoán ra được những gì y không nghe rõ, y đoán nhưng không nhớ y đoán, và việc này càng làm cho y tin chắc rằng việc truyền thanh đã tiến bộ nhiều.
      Yakonov muốn trao đổi ý kiến và quan điểm về sự tiến bộ của dàn máy đang được thí nghiệm này với Bobynin. Người tù này ngồi gần y. Ngay cả lúc ngồi Bobynin cũng vẫn to lớn, đôi vai anh mở rộng và mái tóc anh cắt ngắn đúng kiểu tóc tù nhân mặc dù ở đây tù nhân muốn để tóc theo kiểu nào cũng được. Bobynin không cả ngoảnh mặt nhìn lại khi Yakonov vào phòng. Cúi trên một máy dao động đồ hình, Bobynin đang chăm chú đo đạc bằng một cây thức com phương án.
      Tên Bobynin này chỉ là một tên tù không đáng kể, một thứ sâu bọ mang hình người, một tên thuộc giai cấp hạ tiện cuối cùng của xã hội. Trong khi ấy Yakonov là một viên chức chính quyền cao cấp. Vậy mà Yakonov không dám làm rộn Bobynin mặc dù y rất muốn.
      Người ta có thể xây dựng những tòa nhà trăm tầng như tòa Empire State, người ta có thể làm cho quân đội Phổ có kỷ luật, suy tôn Lãnh Tụ lên cao hơn cả Thượng đế nhưng người ta vẫn không có thể áp chế được tinh thần của một số người.
      Có những người lính trơn làm cho những sĩ quan chỉ huy họ phải sợ họ, có những người thợ làm cho bọn cai phải bối rối và có những người tù làm cho bọn cai ngục run rẩy.
      Bobynin biết như thế và anh lợi dụng tình trạng này trong việc giao thiệp và đối phó với những kẻ có quyền.
      Mỗi lần Yakonov nói chuyện với Bobynin là một lần y thấy y tìm cách lấy lòng Bobynin, tránh không làm cho Bobynin khó chịu hoặc nổi giận. Y rất bất mãn về việc này nhưng y cũng nhận thấy rằng không phải chỉ riêng mình y có thái độ đó với Bobynin, tất cả mọi người đều có thái độ như thế đối với người tù tên là Bobynin.
      Nhấc ống nghe ra khỏi tai, Yakonov ngắt lời Mamurin:
      "Khá lắm, Yakov Ivanich, tiến bộ khá lắm. Tôi muốn nhờ Rubin nghe coi sao. Tai hắn tốt."
      Một người nào đó từng được Rubin khen ngợi về một chuyện gì đó cól ần nói rằng Rubin có đôi “tai tốt”. Và lời nhận xét này được mọi người tin. Rubin là người tù trôi giạt tới Viện Mavrino cũng vì một sự lầm lẫn. Từ đó anh tự làm cho anh trở thành cần thiết bằng cách phiên dịch những tài liệu chuyên môn tiếng ngoại quốc ra tiếng Nga. Tai bên trái của anh nghe được nhưng cũng không tốt gì hơn tai những người khác, nhưng tai bên phải của anh đã bị điếc vì tiếng bom nổ tren mặt trận Tây Bắc. Sau khi được đề cao là có đôi “tai tốt”, Rubin dấu kỹ không để cho ai biết rằng tai bên phải của anh đã bị điếc. Uy tín “tai tốt” làm cho địa vị của Rubin càng thêm vững chắc trong Viện Mavrino, và anh làm cho địa vị này vững chắc thêm bằng một bài khảo cứu nhan đề Âm thanh nhân tạo và hiệu thính âm điện tử trong tiếng nói Nga Ta Lư.
      Họ gọi điện thoại xuống Phòng Âm thính mời Rubin lên. Trong khi chờ đợi, họ lại học và lại nghe. Đây là lần thứ mười trong ngày họ đọc và nghe như thế. Markushev, với đôi lông mày nhìn lại và đôi mắt mệt mỏi vì chú ý, màng ống nói lên một lúc và trịnh trọng nói rằng có sự tiến bộ, rất nhiều tiến bộ. Dyrsin gượng cười như người xin lỗi và gật đầu. Bulatov nói lớn rằng họ sắp đi đến thành công lúc hai chuyên viên điện khi nghe chung một cặp ống nghe cùng nói bằng một giọng tin tưởng rằng âm thanh đã rõ hơn nhiều lắm.
      Bobynin vẫn tiếp tục đo trên dao động đồ, anh vẫn không ngửng đầu lên nhìn.
      Đôi kim đen trên mặt chiếc đồng hồ treo tường lớn đã chỉ 10 giờ 30. Chỉ còn nửa tiếng nữa mọi công việc trong Viện sẽ ngừng trừ Phòng số bảy, những tập đặc san được đánh số và coi như tài liệu tối mật sẽ được cất vào tủ sắt và bọn tù sẽ về phòng ngủ, những viên chức tự do sẽ vội vã đi đến trạm xe buýt. Họ sẽ phải chờ lâu mới có xe về vì ban đêm, xe buýt chạy ít.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #30

       29/7/2011, 10:33

      Ilya Terentevich Khorobrov, ở cuối phòng và bên ngoài mắt nhìn của những ông xếp, nặng nề lê chân ven theo tường về phía Potapov. Khorobrov là người vùng hoang vu nhất của miền Vyatka, gần Kai, quê anh nằm cạnh một vùng đồng lầy ruộng bao la – diện tích của vùng đồng lầy này lớn hơn toàn thể diện tích lãnh thổ nước Pháp – trong đầm lầy này có những trại tập trung đáng sợ nhất của chế độ Nga Xô Viết. Khorobrov từng có dịp nhìn thấy, và biết nhiều hơn mọi người nhưng sự cần thiết phải luôn luôn giấu kín ý nghĩ và đè nén sự đòi hỏi công lý đã làm cho tinh thần và cả thể xác anh nữa, trở thành cong queo, gù xuống, lệch lạc, làm cho vẻ mặt anh trở thành khó coi và vành môi anh rúm lại trong một đường nét thật bẩn. Sau cùng, trong cuộc bầu cử thứ nhất được tổ chức sau chiến tranh, anh không còn chịu đựng được nữa và anh viết bậy những hàng chửi rủa của giới nông dân thô tục lên tấm phiếu bầu, những lời chửi rủa này được anh tặng cho vị Lãnh tụ Tối Cao, vị Thiên Tài của những Thiên Tài. Đó là thời những căn nhà đổ nát không được sửa chữa lại và ruộng nương không được cày vì thiếu người. Trong cả một tháng trường sau ngày bầu cử nhiều nhân viên mật vụ trẻ tuổi nghiên cứu nét chữ viết của tất cả những người đi bầu trong vùng và họ bắt được đúng kẻ viết bậy là Khorobrov. Anh đi tù với niềm ngây ngô là từ nay anh sẽ được dịp nói hả hê những điều anh muốn nói – ở tù rồi còn sự gì nữa – nhưng cuộc sống trong tù vẫn không cho anh tự do chửi rủa như anh tưởng. Cả đống chỉ điểm viên thi nhau báo cáo về Khorobrov và rất sớm, anh nhận thấy rằng anh nên ngậm miệng là hơn.
      Trong Viện Mavrino, sự khôn ngoan tầm thường nhất cho Khorobrov biết rằng anh nên hòa mình vào số những người làm việc ở Phòng số bảy. Lọt vào đây dù anh không có hy vọng gì được trả lại tự do nếu người ta thành công, ít nhất anh cũng được hưởng một đời sống vật chất tương đối sống được. Nhưng sự bất công, vô lý của những trường hợp bị tù của những người khác mà anh đã ở thấy đây làm cho Khorobrov buồn nôn, anh đã đi tới giai đoạn một người không còn muốn sống nữa.
      Đi tới chỗ Potapov ngồi, Khorobrov cúi lưng trên bàn và nói bằng một giọng bình thản:
      “Andreich… Nghỉ thôi. Đêm nay là đêm thứ Bảy.”
      Potapov vừa gắn cái chốt gài hai nắp hộp đngj thuốc điếu vào nhau, cái chốt này màu hồng. Anh nghiêng đầu ngắm vật thủ công do chính ta anh làm ra và hỏi:
      “Thấy sao, Terentich? Hai màu này hợp nhau chứ?”
      Không thấy Khorobrov trả lời, Potapov ngước mắt nhìn người bạn tù. Ánh mắt anh dưới làn kiếng trắng dày nhân từ như ánh mắt bà ngoại nhìn anh cháu.
      “Vội gì, Terentich. Thời gian làm việc cho chúng ta. Anton sắp ra về và chúng ta sẽ biến vào không khí ngay lập tức…”
      Anh nhấn mạnh ba tiếng “ngay lập tức” như đó là những tiếng quan trọng.
      Rubin đã có mặt trong phòng. Bây giờ là mười một giờ đêm, ngày làm việc đã chấm dứt, Rubin đang muốn về giường ngủ đọc Hemingway. Nhưng muốn tỏ ra chú ý đến việc làm của Phòng số bảy, anh hoặc Markushev đọc đi đọc lại những câu mà anh cho là có nhiều âm thanh cần kiểm soát nhất. Anh ra hiệu bằng tay cho Markushev đọc to hơn, đọc nhỏ hơn, như đó là những việc rất quan trọng. Sau cùng, anh gỡ ống nghe ra khỏi tai và tuyên bố rằng theo anh sự tiến bộ tuy có rõ rệt đấy nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm lắm.
      Mọi người ồn ào lên tiếng tán thành và bày tỏ sự vui mừng khi có tiến bộ. Đến lúc này, Bobynin mưới ngửng mặt lên khỏi bàn dao động đồ và nói bằng giọng nói trầm tĩnh, ngạo mạn đặc biệt của anh:
      “Ngốc. Tiến lên được một bước. Các anh làm việc mò mẫm như thế làm sao có thể thành công được. Phải có phương pháp, phải biết trước mình sẽ làm gì, mình đi tới đâu.”
      Dưới cặp mắt nhìn nghiêm khắc không chút rung động của Bobynin, tất cả mọi người trong phòng đều im lặng.
      Sau bức vách sắt làm bằng kệ sắt xếp đầy máy, Potapov dán khóa gài vào nắp hộp đựng thuốc điếu. Potapov từng sống ba năm trong trại tù binh Đức và anh chỉ sống sót được ở đó nhờ tài chế tạo những chiếc bật lửa, hộp đựng thuốc điếu và tẩu gắn thuốc điếu tuyệt đẹp bằng những vật dụng vứt đi. Anh chế tạo chúng mà không cần có dụng cụ gì cả, chỉ hoàn toàn bằng những ngón tay thần diệu của anh.
      Không có một ai trong phòng tỏ vẻ muốn về nghỉ mặc dù ngày mai sắp đến là một ngày chủ nhật.
      Đúng lúc ấy Khorobrov đứng thẳng người lên. Anh đặt tập tài liệu được phát cho anh nghiên cứu lên mặt bàn của Potapov để chờ cất vào tủ sắt, rồi anh đi về phía cửa phòng. Anh lặng lẽ đi ngang đám người xúm xít quanh cái máy được gọi là “Máy cắt âm thanh”.
      Mamurin, mặt xanh mướt trợn mắt nhìn theo Khorobrov:
      “Ylia Trentich… Tại sao anh không chịu nghe? Mà anh đi đâu vậy?”
      Không vội vã Khorobrov từ từ quay lại, với nụ cười méo mó trên vành môi rúm, anh trả lời rõ ràng từng tiếng:
      “Tôi không muốn nói lớn nhưng nếu ông nhất định đòi biết, tôi xin nói: ra khỏi đây tôi đi tới phòng vệ sinh. Nói rõ hơn: tôi đi tiểu tiện và đại tiện. Sau đó, nếu không có việc gì bất ngờ xảy ra, tôi đi về phòng giam và nằm xuống ngủ.”
      Trong bầu không khí im lặng nặng nề đè xuống gian phòng sau câu nói đó, người ta nghe tiếng cười giòn của Bobynin, người không cười mỉm bao giờ, vang lên.
      Việc làm của Khorobrov được coi như một hành động nổi loạn.
      Mamurin bước tới để đánh Kinh, y rít lên:
      “Anh nói gì? Về ngủ? Tất cả mọi người đều làm việc trong khi anh về ngủ?”
      Khorobrov đặt tay lên nắm đấm cửa, anh trả lời như người đang ở vào tình trạng gần mất tự chủ:
      “Phải, đúng thế – tôi về ngủ. Hôm nay tôi đã làm việc đủ 12 tiếng đồng hồ do Hiến pháp qui định rồi. Tôi làm việc đã đủ.”
      Anh có vẻ sắp nói thêm một câu gì nữa, và câu này sẽ là một câu không còn gì có thể cứu vãn được, cánh cửa phòng bỗng mở ra và người sĩ quan trực bước vào báo:
      “Thưa đại tá… có điện thoại trên Tổng bộ gọi đại tá.”
      Yakonov vội đứng lên và đi ra khỏi phòng trước cả Khorobrov.
      Một lát sau, Potapov tắt đèn trên bàn, anh đặt tập tài liệu được trao cho anh cùng tập tài liệu của Kinh lên mặt bàn của Butatov và khập khiễng đi về phía cửa. Anh đi khập khiễng vì chân trái anh bị thương vì một tai nạn xe máy dầu xảy ra trước chiến tranh.
      Phụ tá Tổng trưởng Bộ An ninh Sevastyanov gọi điện thoại tới ra lệnh cho Yakonov phải có mặt ở Bộ vào lúc 12 giờ đêm nay.
      Yakonov trở về văn phòng của y. Y cho Nerzhin về và mời Verenyov cùng về thủ đô trong xe hơi của y. Y bận áo ngoài, mang bao tay và trở lại bàn viết. Dưới hàng chữ “Nerzhin sẽ phải đi”, y viết thêm:
      “Cả Khorobrov nữa.”

      --------------------------------------------------------------------------------

      [1] Trong đoạn này, tác giả nói đến đạo Lão của Trung Hoa. Xong các câu nói trên đây có vẻ là một cách ngông của Khổng giáo về vấn đề “tri túc” hơn là một câu trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử (Nd).
      [2]Kinh Vệ đà: Một kinh sách tôn giáo có trước Phật giáo ở Ấn Độ, trước đây hơn 2.000 năm.
      [3]Người Bạn Thân Nhất đây chính là Stalin. Ở Nga dưới thời Stalin ngự trị, tất cả mọi ngành công nhân đều gọi Stalin là Người Bạn Thân Nhất, cả những binh chủng cũng vậy.
      [4]Yugoslav là Nam Tư và là người lãnh đạo Nam Tư, Tito, bị Stalin ghét nhất.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #31

       29/7/2011, 10:33

      Một người không thể nói dối
      Khi Nerzhin đi trở lại phòng âm thính với cảm giác mơ hồ rằng việc anh vừa làm không sao còn cứu vãn hay sửa chữa được, tâm hồn còn dao động, anh thấy Rubin không còn có mặt trong phòng nhưng tất cả những người khác còn nguyên trong đó. Valentulya, đứng trên lối đi hai bên xếp cao những dàn máy truyền tin, chiếu cặp mắt sáng, linh động, nhìn anh.
      “Đừng vội, chàng trẻ tuổi…”
      Valentulya giơ tay lên ngăn Nerzhin lại như một viên cảnh sát chặn một chiếc xe hơi đang chạy:
      “Người ta gọi anh có việc gì vậy? Qu’est ce que c’est que c’est passé?" ( có chuyện gì xảy ra vậy? )
      "Đừng lắm chuyện Valentine…"
      Nerzhin cau có lẩn tránh câu hỏi. Anh không thể nào nó cho gã trẻ tuổi đầy kiêu mạn này biết rằng anh vừa từ chối cơ hội hiếm có được làm việc với khả năng toán học chuyên môn của anh.
      Valentine vẫn vui vẻ:
      "Nếu anh có vấn đề gì nan giải, tôi khuyên anh nên mở nhạc khiêu vũ. Anh đã đọc bài thơ của anh chàng thi sĩ trên là gì đó nhỉ? Anh chàng thi sĩ chụp hình với điếu thuốc lá gắn trên môi đó…
      Cảnh sát của tôi
      Bảo vệ tôi
      Trong khu vực hạn chế
      Ôi… đời sống đẹp biết chừng nào…
      Nói thực với anh, chúng ta còn đòi hỏi hơn ngoài nhạc khiêu vũ?"
      Nói xong, không chờ Nerzhin trả lời, Valentine đã nghĩ ngay sang chuyện khác. Quay về cuối phòng, Valentine gọi lớn:
      "Vadka… Làm ơn cắm điện vào máy cho tôi…"
      Đi gần tới bàn mình, Nerzhin nhìn thấy rõ sự lo âu hiện trên mặt Simochka. Nàng trố mắt nhìn anh, dò hỏi, không cần che dấu và đôi lông mày của nàng nhíu lại.
      "Gã Râu đen đi đâu rồi, Serafima Vitalyevna?"
      "Anton Nikolayevich gọi anh ấy lên Phòng số bảy" – Simochka trả lời lớn để cho tất cả mọi người trong phòng cùng nghe, xong nàng lại nói lớn – "Gleb Vikentich… Chúng ta kiểm soát lại bản danh sách âm thanh này. Còn nửa giờ nữa mới hết giờ."
      Nerzhin nhìn quanh và hỏi lại:
      "Ồn ào như vầy làm sao có thể làm việc ấy được?"
      "Ờ… vào phòng ghi âm…"
      Simochka đã sắp đặt trước việc này. Nàng liếc nhìn Nerzhin để ra hiệu và cầm bản danh sách, nàng đi vào căn phòng kiếng nhỏ xíu ở cuối phòng trước Nerzhin.
      Nerzhin đi theo nàng vào đó. Anh với tay đóng cánh cửa lại, gài khóa cẩn thận và buông tấm màn che xuống. Simochka bá lấy cổ anh, nàng đứng nhón gót để hôn lên môi anh.
      Trong lòng căn phòng hẹp không còn chỗ để cho hai người xoay chuyển. Nerzhin nhấc bổng người thiếu nữ gầy và nhẹ lên, anh ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng và đặt nàng ngồi lên đùi anh. Họ ngồi ôm nhau như thế trước ống micro và tập danh sách bị vứt ở góc bàn.
      "Anton gọi anh lên làm gì? Có việc gì vậy?"
      Nerzhin thì thầm:
      "Máy phóng thanh có mở không đấy? Coi lại xem. Đừng để cho cả phòng nghe tiếng mình nói."
      "Chuyện gì?"
      "Sao em lại cho rằng có chuyện gì xảy ra?"
      "Em biết ngay có chuyện khi họ gọi anh. Lúc anh trở về, chỉ nhìn mặt anh em biết ngay. Chuyện gì?"
      Anh cảm thấy hơi nóng từ da thịt nàng chuyền sang anh, má anh chạm vào má nàng. Cảm giác này là cảm giác hiếm có với những người ở tù. Không biết bao nhiêu năm tháng đã qua trong đời anh kể từ lần cuối cùng anh được ôm một người đàn bà.
      Thể xác Simochka thật nhẹ, nhẹ một cách lạ lùng, như trong nàng không có xương, như cả người nàng đều là sáp ong. Nàng như một loài chim trông thì có vẻ lớn nhưng chỉ có toàn lông.
      "Em yêu… có lẽ anh sắp phải đi…"
      Nàng xoay mình trong vòng tay anh và đặt hai bàn tay nhỏ bé của nàng lên hai thái dương anh, chiếc khăn len choàng trên vai nàng trễ xuống:
      "Đi đâu?"
      "Sao em lại còn hỏi anh đi đâu? Anh đến đây từ vực thẳm, từ địa ngục, anh lại trở về đó. Về trại tập trung."
      "Nhưng tại sao…? Tại sao?"
      Nerzhin nhìn vào đôi mắt mở lớn đang nhìn ngày chàng của người con gái mộc mạc này, người con gái mà anh không ngờ chiếm được tình yêu. Nàng còn xúc động vì số mệnh của anh hơn cả chính anh.
      "Anh vẫn có thể ở lại được" – Nerzhin buồn rầu nói – "Nhưng anh sẽ phải sang Phòng khác. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, chúng mình cũng không còn được gần nhau."
      Với tất cả sức mạnh của đôi vòng tay, nàng ôm ghì lấy anh, nàng đặt hết trọng lượng thân thể nhẹ bỗng của nàng lên anh và nàng hỏi anh có yêu nàng không.
      Trong những tuần lễ vừa qua, sau khi hôn Simochka chiếc hôn đầu, tại sao anh lại không tiến tới việc yêu nàng? Sao anh lại thương hại nàng? Sao anh lại chỉ nghĩ đến chuyện nàng sẽ khổ sở nhiều hơn là sung sướng với cuộc tình ngắn ngủi này? Dù anh có không yêu nàng, nàng cũng khó lòng tìm được một tấm chồng, dù là chồng không ra hồn, nàng sẽ rơi vào tay một gã đàn ông nào khác, bất kể là gã nào có dịp gần gụi nàng. Nàng đến trong vòng tay anh, tự nguyện hiến dâng, sẵn sàng cho anh yêu. Tại sao lại từ chối anh và từ chối cả nàng? Mai đây anh sẽ trở về trại tập trung và cơ hội hiếm có này sẽ không thể đến với anh trong nhiều năm nữa…
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #32

       29/7/2011, 10:33

      Anh vội vã nói:
      “Anh không muốn ra đi như thế này… Anh không muốn xa em mà không để lại cho em một kỷ niệm gì của anh… Anh muốn… anh muốn cho em một đứa con…”
      Nàng giấu mặt nàng vào ngực anh và anh đặt ngón tay dưới cằm nàng, âu yếm nâng mặt nàng lên.
      “Em yêu, đừng giấu mặt. Nhìn anh, xin em nhìn anh… Sao em không nói? Em không thích ư? Em không chịu ư?"
      Nàng ngửng đàu lên và từ tận cùng trái tim nàng, tâm hồn nàng, nàng nói:
      "Em sẽ chờ anh. Anh chỉ còn năm năm? Em sẽ chờ anh năm năm? Khi nào anh được ra, anh về với em?"
      Nerzhin chưa bao giờ nói với nàng như thế. Nàng đã ước mơ, nàng đã làm cong queo sự thật, nàng làm như chàng là người không có vợ. Tội nghiệp cho nàng, người con gái có chiếc mũi dài quá khổ này, nàng ao ước được lấy chồng.
      Vợ Nerzhin sống ở đâu đó trong thủ đô Mạc Tư Khoa ngay gần đây, nhưng với anh, nàng cũng xa xôi như nàng đang ở trên Hoả tinh.
      Và bên cạnh người con gái đang ngồi trên đùi anh, bên cạnh vợ anh đang sống ở Hỏa tinh, anh còn những trang giấy giấu trong bàn viết của anh những trang giấy ghi những hàng chữ trừu tượng đã làm anh tốn không biết bao nhiêu công phu, tâm huyết. Đó là những ghi nhận và phê phán của anh, về thời đại hậu Lênin, những tư tưởng đẹp nhất được đúc kết trong óc anh.
      Nếu anh đi khỏi đây trong một chiếc xe chở tù công cộng, tất cả những công phu ấy sẽ phải làm mồi cho ngọn lửa.
      Anh nên nói dối nàng, nàng nên hứa là khi ra khỏi tù, anh sẽ đến với nàng, sống với nàng. Một lời nói dối, một lời hứa như tất cả mọi người vẫn nói, như bất cứ người nào ở trong tình trạng của anh cũng phải nói. Nói dối để khi anh phải ra đi, những tờ giấy quý báu của anh sẽ được nàng giữ cho anh. Chắc chắn, không sao có thể mất được.
      Nhưng anh không sao có thể nói dối được với cặp mắt đang nhìn anh chứa chan hy vọng kia.
      Để tránh tia mắt ấy, anh cúi xuống hôn lên đầu vai xương xẩu do những ngón tay anh mở lộ dưới áo nàng.
      Một lát sau, anh do dự nói:
      "Có lần em hỏi anh là anh viết những gì trên những tờ giấy nhỏ đó… Em nhớ không?"
      "Nhớ. Mà anh viết gì vậy?"
      Nàng hỏi anh với giọng tò mò y hệt lần hỏi đầu tiên.
      Nếu nàng đừng hỏi lại anh câu đó, nếu nàng đừng tỏ ra tò mò, đừng có vể thúc giục anh nói, Nerzhin đã nói hết với nàng sự thật ngay lúc đó. Nhưng vẻ tò mò dục dã của nàng làm cho anh chợt nhớ đến việc đề phòng. Anh đã sống quá nhiều năm trong cuộc sống mà đề phòng trở thành một thói quen như việc hít thở khí trời, giữa những bãi mìn đầy những dây bẫy vô hình có thể làm nổ tung bất cứ lúc nào.
      Đôi mắt ngây thơ, chan chứa yêu thương này có thể là đôi mắt của một nhân viên mật vụ. Lát nữa đây biết đâu nàng lại chẳng kể lại hết từng tiếng anh nói với tên sĩ quan thượng cấp của nàng.
      Đột nhiên, nàng nhớ lại những chuyện đã xảy ra giữa anh và Simochka. Lần đầu tiên, chính nàng đã để má nàng chạm vào má anh trong phòng ghi âm này. Biết đâu đó lại chẳng phải là một hành động cố ý? Biết đâu nàng lại chẳng nhận được lệnh phải làm như thế? Biết đâu tất cả mối tình này lại chẳng là một cái bẫy?
      "Đó là những tài liệu anh ghi về lịch sử" – Nerzhin trả lời mơ hồ – "Lịch sử nói chung kể từ đời vua Peter. Chẳng có giá trị gì với người khác nhưng có giá trị với riêng anh. Anh sẽ tiếp tục viết cho đến khi nào Yakonov tống cổ anh ra khỏi đây. Nhưng nếu anh phải đi, không biết anh có thể nhờ ai giữ giùm anh."
      Đôi mắt Nerzhin bây giờ nhìn sâu vào mắt Simochka, nhưng anh nhìn không phải là để xúc động, để tỏ tình mà là để dò xét.
      Simochka bình thản mỉm cười:
      "Anh còn phải hỏi nữa sao? Đưa cho em, em giữ cho anh. Anh cứ viết đi. Đừng sợ."
      Và nàng hỏi câu hỏi nàng muốn hỏi từ lâu nhưng vẫn sợ phải nghe câu trả lời:
      "Nói cho em biết… vợ anh… đẹp lắm phải không?"
      Tiếng chuông máy điện thoại nối liền phòng ghi âm với phòng thí nghiệm bên ngoài chợt reo làm đôi tình nhân giựt mình. Simochka mở máy khuếch âm trước khi nhấc ống nghe để trả lời người gọi vào bên ngoài. Nàng ngồi đó, đôi má đỏ hồng, y phục sộc sệch và nói vào máy như người đang bận rộn với việc đọc bản danh sách âm thanh “Dop, fskop, sthap”. Những người ở bên ngoài sẽ nghe thấy những tiếng nàng vừa nói.
      Nàng nhấc ống điện thoại và trả lời:
      “Chi đó Valentine Martynich? Ống đèn đôi diode-triode ư? Anh cần gấp không? Mình không có sẵn đèn 6G7 nhưng đèn 6G2 thì có. Được, để tôi đọc xong sẽ lấy cho anh… Droot, moot, shoot…”
      Nàng tắt máy và vuốt nhẹ má Nerzhin:
      “Em phải ra thôi. Họ nghi… Cho em ra…”
      Nhưng nàng không có vẻ gì là muốn ra khỏi đó.
      Nerzhin hôn nàng, anh ôm ghì lấy nàng chặt hơn.
      “Em không đi đâu hết. Ở đây, anh… anh muốn…”
      “Đừng. Họ đang chờ em. Em còn phải cất tài liệu…”
      “Ngay bây giờ…”
      Anh đòi hỏi. Và anh hôn nàng.
      “Ngay bây giờ thì không thể được…”
      “Bao giờ? Bao giờ?”
      Nàng ngoan ngoãn trả lời anh như lời anh hỏi là một mệnh lệnh:
      “Thứ hai. Thư hai em lại trực. Em trực thay cho Lyra. Anh đến đây sau giờ ăn trưa. Chúng mình sẽ có cả một giờ đồng hồ. Chỉ sợ gã khùng Valentulya giở trò đến làm việc.”
      Trong lúc Gleb Nerzhin mở cửa, Simochka vuốt lại mái tóc, sửa lại y phục, gài lại nút áo và nàng bước ra khỏi đó trước anh, dáng điệu kiêu kỳ và vẻ mặt lạnh lùng.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #33

       29/7/2011, 10:34

      “Có đêm tôi sẽ quẳng cái giầy lên bóng đèn xanh kia. Nó làm tôi chịu không nổi.”
      “Anh sẽ ném trật.”
      “Gì mà trật? Sáu thước mà trật sao? Tôi cá với anh phần tráng miệng trái cây trưa mai là tôi ném trúng đây.”
      “Nằm ở giường dưới này ném. Xa hơn một thước đấy…”
      “Bảy thước cũng trúng như thường. Bọn quái quỉ… Không biết chúng còn nghĩ ra những gì để hành hạ mình nữa? Ánh đèn này rọi vào mắt tôi suốt đêm.”
      “Đèn xanh mà?”
      “Thì xanh chứ sao. Bộ anh thì không chói mắt sao? Ánh sáng cũng có sức ép. Lebedev phát minh ra chuyện ấy. Aristip Ivanich… ngủ chưa? Chưa ngủ thì làm ơn đưa cho tôi cái giầy của tôi…”
      “Tôi sẽ đưa giầy cho anh. Vyascheslav Petrovich, nhưng trước hết, anh phải nói cho tôi biết tại sao anh lại không chịu ánh đèn xanh?”
      “Ánh sáng xanh phát ra những làn sóng ngắn, và những làn sóng ngắn có nhiều lượng tử. Lượng tử làm hại mắt tôi.”
      “Với tôi, ánh sáng xanh rất dịu, rất mát. Nó gợi cho tôi nhớ lại ánh đèn ngày xưa mẹ tôi thắp trên bàn thờ ban đêm, khi tôi còn thơ…”
      “Mẹ ơi… Làm sao loài người có thể thực hiện được chế độ dân chủ? Làm sao thỏa mãn được tất cả mọi người? Vì mỗi người có một ý riêng, những sở thích riêng. Tôi nhận thấy trong một phòng giam, những vấn đề giản dị nhất thường gây ra những trận xung đột ý kiến gay cấn nhất. Chẳng hạn như việc chén đĩa, việc quét nhà. Tự do sẽ là giai đoạn cuối cùng của nhân loại. Hỡi ơi, chỉ có gậy gộc mới có thể cho loài người biết được sự thật mà thôi.”
      “Đúng đấy. Nhưng việc đặt bóng đèn xanh ở chỗ này cũng được lắm chứ? Nơi đây trước kia là bàn thờ mà.”
      “Không phải là bàn thờ. Đây tầng tháp tròn ở trên bàn thờ. Họ làm thêm ở đây một sàn phòng.”
      “Dmitri Aleksandrovich… Anh làm cái gì vậy? Mở cửa sổ trong đêm tháng Chạp! Vừa thôi chứ?”
      “Thưa các bạn… dưỡng khí làm cho những tù nhân trở thành bất tử. Có tới hai mươi tư gã đàn ông trong căn phòng nhỏ này và ngoài kia trời không có gió, không có sương tuyết. Tôi chỉ mở hé bằng một quyển Ehrenburg [1] .”
      “Mở lớn hơn đi. Trong này ngạt thở lắm.”
      “Bạn mở hé bằng chiều dầy một quyển Ehrenburg hay bằng chiều cao?”
      “Bằng chiều cao chứ. Cửa sổ này lớn lắm mà.”
      “Mình có thể phát điên lên vì phải sống ở đây lắm. Áo lạnh của tôi đâu rồi?”
      “Nếu tôi có quyền, tôi sẽ cho hết những anh nghiện dưỡng khí này đến Oimyakon làm khổ sai ngoài trời. Làm việc mười hai tiếng đồng hồ một ngày ở một nơi lạnh sáu mươi độ dưới số không, các cậu sẽ chui hết vào vào chuồng dê để trốn lạnh.”
      “Trên nguyên tắc, tôi không chống lại dưỡng khí, nhưng tại sao lại cứ phải là dưỡng khí lạnh? Tại sao không có dưỡng khí ấm?”
      “Có chuyện gì xảy ra trong phòng này vậy? Sao tối om thế? Tại sao họ lại tắt đèn sớm quá vậy?”
      “Valentulya, anh cứ làm như anh ngây thơ lắm vậy. Một giờ sáng rồi anh vẫn còn đi lang thang chưa chịu ngủ. Nửa đêm anh cần đèn để làm gì?”
      “Còn anh là một tên nô lệ cho thời trang…”
      “Phòng này đầy khói. Quái thật, tại sao các anh lại phải hút thuốc lá mới sống được nhỉ? Mà anh nào cũng hút. Trời, hôi quá. Bình trà lại nguội rồi.”
      “Lev đâu rồi nhỉ?”
      “Gì? Hắn không nằm trên giường hắn sao?”
      “Trên giường hắn chỉ có mấy chục quyển sách người không có hắn.”
      “Nếu vậy chắc hắn lại ở trong nhà vệ sinh rồi.”
      “Sao anh biết?"
      "Trong ấy có bóng đèn điện sáng, nhà bếp bên cạnh làm cho vách phòng ấm. Chắc hẳn ngồi đọc sách ở trong đó. Tôi đi rửa mặt đây, anh có cần tôi bảo gì hắn không?"
      "… Sau đó chuyện như thế này: nàng trải tấm mền lên sàn cho tôi còn nàng nằm ở trên giường. Tuyệt vời… Ngon ơi là ngon…"
      "Các bạn làm ơn cho tôi xin. Hãy nói sang chuyện khác, đừng nói đến đàn bà. Với tình trạng kiêng ăn thịt của bọn mình, đàn bà là một đề tài có hại."
      "Thôi đi các bạn họ nhà vạc, ngừng nói và ngủ đi. Chuông tắt đèn reo từ lâu lắm rồi."
      "Đúng, nhưng mà tôi chưa buồn ngủ. "
      "Nếu anh muốn ngủ, anh sẽ ngủ…”
      “… Ở Phi châu, tôi chiến đấu dưới quyền Rommel. Ở đó điều phiền nhất là khí hậu quá nóng mà lại không có nước.”
      “… Ở Bắc Băng dương có một hòn đảo tên là Makhotkin. Makhotkin trước kia là một phi công bay thám hiểm Bắc Băng dương. Nay hắn ngồi tù vì tội tuyên truyền chống lại Xô Viết.”
      “Mikhail Kuzmich… Anh làm gì mà trở mình dữ vậy?”
      “Bộ tôi không còn có cả quyền trở mình hay sao đây?”
      “Còn chứ, xong anh nhớ cho rằng mỗi một chuyển động nhẹ của anh dưới đó sẽ được chuyền lên trên này lớn và mạnh kinh khủng.”
      “Ivan Ivanavich… anh cần phải được sống vài năm ở trại tập trung mới khá được. Ở đó mỗi lần có người trèo lên giường, nên nhớ mỗi giường nằm bốn người, là có ba anh bị xô vào nhau như đang nằm trên tàu biển. Và mỗi khi ở chiếc giường từng dưới có ai đóng cái đinh treo màn hoặc mang một chị đàn bà về là… rầm rầm, rung rinh như động đất. Vậy mà người ta vẫn cứ ngủ được như thường.”
      “Tôi từng ở Auschwitz [2] . Ở đó mới thật là khủng khiếp. Họ đưa anh thẳng từ nhà ga xe lửa tới lò hơi ngạt và đốt xác, có cả ban nhạc đi theo.”
      “Câu cá ở đó thì thật tuyệt. Đi săn cũng tuyệt. Vào mùa thu anh có thể đi trong một tiếng đồng hồ là có quyền trở về với cả chục con chim trĩ. Nếu anh đi vào rừng, anh bắn gấu. Nếu anh đi trong cánh đồng cỏ, anh bắn thỏ.”
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #34

       29/7/2011, 10:34

      “Những nhà tù đặc biệt kiểu này được bắt đầu lập lên vào khoảng năm 1930. Năm đó người ta kết tội những kỹ sư nhóm “Promparty” tội âm mưu, tư thông với người Anh. Sau đó người ta lại muốn biến những kỹ sư ấy có thể làm được những việc gì trong nhà tù. Người điều khiển nhà tù đặc biệt thứ nhất là Leonid Konstantinovich Ramzin. Cuộc thí nghiệm là một thành công lớn. Ở ngoài nhà tù, người ta không sao có thể tụ hội được hai kỹ sư lớn hoặc hai vị đại khoa học gia cùng làm việc một nơi. Nếu chẳng may có hai vị cùng ở một chỗ các vị sẽ tranh chấp nhau vì tên tuổi, danh vọng, vì giải Stalin, và vị mạnh thế hơn nhất định sẽ đá vị kia ra khỏi sở. Vì vậy nên ở bên ngoài nhà tù tất cả những viện khoa học, những sở nghiên cứu đều chỉ có một nhóm người không có gì xuất sắc bao quanh một vị dẫn đầu tài ba. Nhưng còn ở trong nhà tù? Trong nhà tù người ta không còn bận trí đến chuyện tiền tài hay danh vọng nữa. Nikolai Nikolaich mỗi ngày được hưởng nửa ly sữa và Pyotr Petrvich cũng vậy. Cả tá khoa học gia cừ khôi như những con sư tử sống chung hòa bình với nhau trong một cái chuồng. Vì không thể đi đâu được hết, vì ngồi đánh cờ hay hút thuốc mãi cũng chán, họ rủ nhau: Sáng chế cái gì cho vui đi. Được đấy. Làm thì làm, sợ gì. Rất nhiều thứ đã được chế ra bằng cách ấy. Đó là căn bản tính của những nhà tù đặc biệt.”
      “Các bạn ơi… có tin mới: Bobynin vừa được họ mang đi đâu đó.”
      “Valentulya… Anh nói nhỏ chứ… Tôi đè cái gối này lên mặt anh cho anh hết thở bây giờ…”
      “Họ mang Bobynin đi đâu, Valentulya?”
      “Họ mang hắn đi bằng cách nào?”
      “Gã trung úy đến tận phòng, bảo Bobynin bận áo ngoài, đội mũ.”
      “Có mang tất cả quần áo đi theo không?”
      “Không. Quần áo vẫn để lại.”
      “Chắc hắn được đưa đi gặp Xếp Lớn rồi.”
      “Gặp Oskolupov ư?”
      “Oskolupov lên đây chứ không cho gọi đến. Người gọi là người cao hơn Oskolupov.”
      “Trà nguội rồi. Khó chịu quá…”
      “Anh bảo tôi làm cách nào cho tan đường?”
      “Làm cách nào cũng được nhưng làm trong yên lặng.”
      “Chỉ có những tai họa tinh tú mới xảy ra im lặng vì tiếng động không truyền đi được ở ngoài không gian. Nếu một ngôi sao mới nổ tan ở sau lưng anh, anh cũng không nghe thấy được tiếng nổ. Ruska, mền của anh rớt xuống sàn kìa, sao anh lại nằm vắt ngang mép giường kỳ vậy? Anh ngủ sao? Anh có biết rằng mặt trời của chúng ta chỉ là một ngôi sao mới thành hình và vì vậy, trái đất sẽ bắt buộc phải tan vỡ trong một tương lai gần đây?”
      “Tôi không muốn tin chuyện ấy. Tôi còn trẻ tôi muốn sống.”
      “Ha… Ha… Câu nói đơn sơ đến là chừng nào. C’est le mot. Hắn muốn sống. Trà nguội uống khó chịu quá."
      "Valentulya… Họ đưa Bobynin đi đâu?"
      "Làm sao tôi biết. Có thể đưa đi gặp Stalin lắm ạ."
      "Valentulya… Nếu người ta đưa anh đến gặp Stalin, anh sẽ làm gì?"
      "Tôi hả? Hô… Hô… Tôi sẽ nói với ông ấy tất cả những lời khiếu nại của tôi. Nói từ A đến Z."
      "Nghĩa là nói những gì? Kể thử vài điều ra coi…"
      "Kể hết. Kể hết. Par exemple… tại sao chúng ta lại phải sống không có đàn bà. Tình trạng ấy hạn chế khả năng sáng tạo của chúng ta."
      "Pryanchikov… thôi đi. Mọi anh em khác ngủ cả từ lâu rồi. Tại sao anh lại cứ phải hét lên như vậy?"
      "Tôi không muốn ngủ…"
      "Các bạn, ai hút thuốc đó? Giấu đi. Gã trung úy tới đó…"
      "Tên đó đến đây làm chi? Cẩn thận đó công dân trung úy. Cẩn thận kẻo ngã bể mũi đó."
      "Pryanchikov!"
      "Cái gì đó?"
      "Anh nằm đâu? Anh ngủ chưa?"
      "Tôi ngủ rồi."
      "Dậy mau, bận quần áo lên, lẹ lên. Nhớ bận áo ngoài, đội mũ."
      "Không. Lẹ lên. Có xe chờ anh."
      "Tôi đi cùng với Bobynin ư?"
      "Hắn đi trước rồi. Có xe khác chờ anh."
      "Xe gì, trung úy ư? Xe Maria Đen chăng?"
      "Lẹ lên. Lẹ lên. Xe Pobeda."
      "Ai kêu tôi vậy?"
      "Thôi đi, Pryanchikov. Tại sao tôi lại phải giải thích với anh nhỉ? Chính tôi cũng không biết ai. Mau đi."
      "Valentulya… Nhớ nói hết với họ nghe."
      "Khiếu nại với họ về quyền được tiếp thân nhân của chúng ta. Hỏi họ tại sao những tù nhân bị bắt vì Đoạn 58 lại chỉ được quyền tiếp thân nhân một năm có một lần."
      "Khiếu nại về quyền đi bộ ngoài trời của chúng mình."
      "Về thư từ…"
      "Quần áo nữa."
      "Ha… Ha. Vĩnh biệt các bạn."
      "Đồng chí trung úy… Tên Pryanchikov đâu?"
      "Hắn ra đây. Đồng chí thiếu tá, hắn đâu?"
      "Nói thẳng với họ hết mọi chuyện, đừng khớp nghe Valentulya."
      "Đêm nay lộn xộn quá ta…”
      “Chuyện gì vậy?”
      “Chuyện này chưa từng bao giờ xảy ra.”
      “Có thể là lại mới có chiến tranh xảy ra. Họ lôi chúng mình đi bắn.”
      “Đừng vớ vẩn. Ai thèm bận tâm đến chúng mình vào giữa một hai giờ sáng? Nếu có chiến tranh, họ đã dùng đại liên đốn bọn mình cho chết hết một lúc hoặc là cho bệnh dịch vào đây…”
      “Xong rồi, các bạn. Đến giờ ngủ. Sáng mai chúng ta sẽ biết rõ hết mọi chuyện.”
      “… Chuyện này thường xảy ra vào năm 1930. Tới năm 1940 Beria cho gọi Boris Sergeyevich Stechkin từ nhà tù đặc biệt về. Boris không phải là loại tù trở về nhà tù tay không. Mỗi lần được gọi về như thế là phải có sự thay đổi trong nhà tù, không tên giám đốc bị thay thế thì giờ đi bộ ngoài trời được nới rộng hơn. Boris nhất định không chấp nhận sự phân chia giai cấp trong phạm vi ăn uống. Ông không chịu cái cảnh cùng sống trong tù nhưng một đại học giả được ăn trứng gà và sữa chua, một giáo sư được hưởng ba mươi gờ ram bơ trong khi một tù nhân làm lao công chỉ được hưởng một nửa thế. Boris Sergeyevich Steckhin là một người tốt, thực tốt… Cầu cho ông ấy được yên vui…”
      “Ổng chết rồi sao?”
      “Không, họ cho ổng ra. Họ trao cho ổng giải Stalin.”
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #35

       29/7/2011, 10:34

      Người đàn ông nào cũng cần đàn bà
      Giọng nói đều đặn, mệt mỏi của Adamson tắt đi. Adamson là một trong số những người sống kỳ cựu nhất trong những nhà tù đặc biệt như Viện Mavrino. Đây đó trong phòng giam, thỉnh thoảng lại có tiếng thì thào của những kẻ nói tiếp câu chuyện bỏ dở. Có người ngáy lớn. Có những tiếng ngáy dữ dội vang lên rồi tắt đi.
      Bóng đèn xanh gắn trên vòm trần nhà hình tròn ngay trên cánh cửa đôi tỏa ánh sáng nhạt mờ xuống mười hai chiếc giường hai tầng kê thành hình cánh quạt trong căn phòng lớn. Căn phòng này có lẽ là căn phòng duy nhất có hình thể cổ lỗ còn sót lại ở Mạc Tư Khoa. Trên nó là một mái nhà hình tròn và ở đỉnh mái là một cái tháp. Vòng theo hình tròn của mái nhà có nhiều khung cửa sổ. Những khung cửa sổ này bị đóng chặt lại nhưng không bị che kín. Ban ngày, người ta có thể nhìn qua những khung cửa sổ này ra con đường nhựa lớn và những công viên không được sửa sang cây cối rậm rạp như rừng. Từ đó vào những tối mùa hạ, người ta nghe thấy tiếng hát khêu gợi, khuấy động của những thiếu nữ thiếu đàn ông sống ở vùng ngoại thành Mạc Tư Khoa.
      Nằm trên chiếc giường trên bên cạnh cửa sổ chính của văn phòng Nerzhin trằn trọc không ngủ được. Và chàng cũng không muốn ngủ. Ở chiếc giường bên dưới giường anh, kỹ sư Potapov, từ lâu, đã ngủ giấc ngủ yên bình của những người vừa qua một ngày dài làm việc vất vả. Trên chiếc giường trên ở bên trái Nerzhin, người tù có khuôn mặt tròn vành vạnh tên là Zemelya nằm duỗi thẳng chân tay và ngáy ròn. Trên chiếc giường trên bên phải Nerzhin là giường của Ruska Doronin, người tù ít tuổi nhất Mavrino. Ruska cũng xoay trở trên giường và có vẻ trằn trọc không ngủ được. Bên dưới chiếc giường của Zemelya là giường của Pryanchikov. Giường này trống không có người nằm vì Pryanchikov vừa được gọi đi.
      Giờ đây, trong khi nằm thao thức nhớ lại từng chi tiết cuộc nói chuyện vừa qua của mình với Verenyov trong văn phòng phòng của Yakonov, Nerzhin hiểu rõ tất cả mọi chuyện một cách sáng suốt và tinh tường hơn. Việc anh từ chối tham gia công tác ám số không phải là một sự kiện ngẫu nhiên mà có, nó đánh dấu khúc rẽ quan trọng trong đời anh. Hành động từ chối của anh chắc chắn sẽ có hậu quả, và hậu quả nầy có thể đến sớm hơn là anh tưởng, anh sẽ phải làm một chuyến đi dài và gian khổ tới. Tây Bá Lợi Á hoặc Bắc Băng dương, đến cái chết hoặc đến cuộc chiến thắng cơ cực cái chết.
      Nerzhin muốn suy nghĩ về ý nghĩa khác rẽ quan trọng này trong đời chàng. Anh đã làm được những gì trong ba năm sống tương đối đỡ khổ trong Viện Nghiên cứu này? Anh đã rèn luyện được anh đủ để có thể nhảy trở về vực thẳm là những trại tập trung hay chưa?
      Và ngày sắp tới lại chính là ngày sinh nhật của Nerzhin. Anh đã được ba mươi mốt tuổi. (Tất nhiên là Nerzhin không nỡ nhắc nhở cho những người bạn đồng tù của anh biết sự kiện này.) Ba mươi mốt tuổi phải chăng là đoạn giữa của đời anh, là đoạn cuối cùng hay cũng là đoạn mở đầu?
      Ý nghĩa của anh trở thành lộn xộn. Anh không sao có thể tập trung tư tưởng vào những vấn đề thiết yếu. Mặt khác, một cảm giác yếu đuối ám ảnh tâm trí anh: thực ra, tới lúc này anh muốn sửa đổi lại cũng chưa phải là quá muộn, nghĩa là anh vẫn còn có thể ngỏ ý muốn gia nhập công tác ám số. Anh lại cảm thấy cái đau nhói ở trái tim khi nhớ tới những tháng dài dằng dặc không được gặp mặt vợ anh, không được nhìn thoáng thấy nàng. Đã gần một năm rồi anh không được gặp vợ. Liệu anh có thể gặp nàng một lần trước khi ra đi hay không?
      Và sau cùng, ở trong anh, trỗi dậy con người tinh tế, linh động, sắc sảo, con người đã sống trong anh từ lâu, từ ngày anh còn là chú thiếu niên đứng xếp hàng chờ đến lượt vào mua bánh mì trong kế hoạch ngũ niên thứ nhất. Con người bên trong kiên nhẫn và can cường này đã chuẩn bị chờ đợi những cuộc khám xét gắt gao mà anh sẽ phải chịu trong những ngày đen tối sắp tới – anh sẽ bị khám xét rất kỹ khi anh ra khỏi Mavrino, khi anh đến những trung tâm nhận tù nhân ở Butyrskaya, rồi đế Krasnaya Presnya – con người bên trong đó cũng đã thầm nghĩ đến chuyện làm cách nào để có thể dấu được những mẩu chì nhỏ lấy ra từ những cây viết chì trong nẹp áo, làm cách nào để có thể mang theo được hết số áo quần anh hiện có ở đây – với một người tù khổ sai phải làm việc ngoài trời, mỗi một lượt vải đắp thêm được lên người là một cái gì quí báu vô giá – làm cách nào chứng minh được rằng cái muỗng bằng nhôm đi theo anh từ ngày đầu anh vào tù là vật của riêng anh chứ không phải là vật do anh lấy trộm của nhà tù này – điều khó khăn là những chiếc muỗng nhôm được dùng trong nhà tù đặc biệt này cũng gần giống hệt chiếc muỗng của anh.
      Nerzhin ngồi dậy và dưới ánh sáng mờ của bóng đèn xanh, anh lặng lẽ, âm thầm chuẩn bị. Anh xếp lại quần áo, tìm trước những chỗ giấu.
      Trong lúc đó Ruska Doronin, người tù trẻ nhất nằm trên chiếc giường cạnh Nerzhin vẫn xoay trở không ngủ. Đột ngội, Ruska ngồi lên và đẩy cái gối sắt vào thành giường để ngồi dựa lưng trên đó, rồi chàng mở quyển Lịch sử La Mã của Mommsen ra định đọc. Nhận thấy Nerzhin chưa ngủ, hai mắt vẫn mở nhìn thẳng lên ngọn đèn xanh trên trần nhà, Ruska thì thầm:
      “Gleb… Còn thuốc lá không? Cho tôi một điếu.”
      Lúc thường Ruska vẫn không hút thuốc. Nerzhin thò tay vào túi chiếc áo ngoài treo ở cột giường, móc ra hai điếu thuốc lá. Họ châm lửa hút.
      Ruska hút thuốc một cách chăm chú, chàng không quay lại nhìn Nerzhin. Dưới mái tóc bồng, khuôn mặt Ruska vẫn có những nét hấp dẫn mặc dù bị soi sáng bởi một làn ánh sáng ảm đạm như chết. Khuôn mặt Ruska luôn luôn thay đổi, có khi đó là khuôn mặt của một thiếu niên chất phác, thành thật, đôi khi đó là khuôn mặt của một người đàn ông hiểu biết, tự tin.
      “Gạt tàn vào cái này…”
      Nerzhin đưa cho Ruska một bao thuốc Belomor không.
      Cả hai người cùng gạt chung tàn thuốc vào bao giấy đó.
      Ruska mới đến Mavrino vào đầu mùa hè và Nerzhin có cảm tình ngay với người tù ít tuổi này từ phút đầu. Sự trẻ trung của Ruska gợi lên trong Nerzhin ý muốn bảo vệ, giúp đỡ.
      Nhưng sự thực là mặc dù Ruska mới có hai mươi nhăm tuổi – (vì bị người ta kết án đúng hai mươi nhăm năm tù) – chàng không phải là kẻ cần được bảo vệ, che chở, hướng dẫn. Cá tính của Ruska và những quan niệm của chàng về cuộc đời đều đã được nhào nặn, trui rèn, thành hình trong cuộc sống tuy ngắn nhưng rất sôi động, bão tố của chàng – Ruska không biết gì về đời nhờ hai tuần lễ chàng sống ở Đại học đường Mạc Tư Khoa, cũng không nhờ hai tuần lễ chàng sống ở Đại học đường Leningrad – mà là nhờ hai năm trời chàng sống với một sổ thông hành giả trong lúc tên thật của chàng bị ghi trong danh sách tội phạm bị tầm nã trên khắp Liên Bang Xô Viết – (Gleb được chính Ruska tiết lộ cho biết sự bí mật này) – tiếp theo đó là hai năm tù ở. Với khả năng thích nghi với hoàn cảnh thiên phú, Ruska lập tức hiểu ngay và nắm được ngay những bí quyết để sống trong tù: chàng lúc nào cũng đề phòng, chỉ thành thật với một số rất í người và làm cho tất cả mọi người tin rằng chàng hãy còn ngây thơ, khờ khạo như một đứa trẻ. Ngoài những tính tốt đó, chàng còn tỏ ra nhiệt thành, muốn làm thật nhiều việc trong một thời gian thật ngắn, đọc sách là một trong những việc chính của chàng.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #36

       29/7/2011, 10:35

      Gleb, bất mãn vì những ý nghĩ lộn xộn và hạ tiên của chính mình và chàng không muốn ngủ, nói nhỏ trong bầu không khí im lặng của gian phòng.
      “Này… lý thuyết lịch sử đi theo vòng tròn của chú đến đâu rồi?”
      Hai người từng thảo luận về lý thuyết này và Ruska đang cố ý tìm những chứng minh và công nhận trong tác phẩm của Mommsen [3] .
      Ruska quay lại sau tiếng thì thầm, nhưng Nerzhin hỏi quá nhỏ và chàng nghe không rõ. Đôi lông mày chàng trẻ tuổi nhíu lại trong cố gắng tìm hiểu mình vừa được hỏi gì.
      “Tôi hỏi… lý thuyết lịch sử theo vòng tròn của chú đến đâu rồi?”
      Ruska thở ra một hơi dài và vẻ cố gắng biến ngay trên mặt chàng, cả những ý tưởng ám ảnh chàng trong lúc chàng hút thuốc cũng tan đi. Chàng nằm sấp chống hai cùi chỏ xuống giường, mặt hướng về phía Nerzhin và sau khi bỏ mẩu thuốc tàn vào bao giấy, chàng nói:
      “Chẳng đi đến đâu hết. Tất cả làm tôi chán ngấy. Sách với lý thuyết cũng vậy.”
      Họ lại yên lặng. Nerzhin muốn nằm quay mặt sang phía giường bên kia cho đỡ mỏi nhưng Ruska đã đột ngột phát lên tiếng cười nhẹ và bắt đầu nói. Càng nói, chàng càng nói nhanh hơn và thêm hào hứng:
      “Lịch sử đều đều, phẳng lặng, không có sự kiện gì lạ đến nỗi làm cho tôi cảm thấy tiếc thì giờ khi đọc lại nó. Ở đâu và ở thời nào cũng vậy, mỗi người càng lương thiện, càng đức hạnh chừng nào càng bị những kẻ đồng thời đối xử tàn tệ chừng ấy. Cassius Vecellinus, Nhiếp chính quan La Mã, muốn phát đất ruộng cho quần chúng và quần chúng treo cổ ông ta. Spurius Maelius muốn làm cho dân đói bớt đói và người ta xử tử ông vì tội âm mưu chiếm đoạt ngôi vua. Nhiếp chính quan Marcus Manlius bảo vệ được điện Capitol khỏi bị tàn phá để rồi bị xử tử vì tội phản bội. Anh thấy không?”
      Ruska cười cay đắng và ngạo mạn:
      “Và khi nhớ lại anh hùng Hannibal, nếu không có người, chúng ta có thể sẽ không bao giờ nghe nói đến cái tên thành Carthage, bị lưu đày vì chính Carthage, sản nghiệp của ông bị tịch thu và tòa nhà ông từng sống bị đập phá thành đất bằng. Tất cả những gì đang xảy ra bây giờ đều đã xảy ra trước đây. Họ nhốt văn hào Gnaenus Naevius vào tù để ngăn không cho ông sáng tác những vở kịch can đảm đề cao tự do của con người. Và bọn Aetolia ban hành lệnh đại ân xá giả để đánh lừa những người di cư tị nạn trở về và giết họ. Ngay cả ở La Mã thời cổ người ta đã khám phá ra sự thật, nhưng sau đó người ta lại quên đi, là việc để cho bọn nô lệ đói khổ, là việc có hại cho bọn chủ nhân nhiều hơn là có lợi. Tất cả lịch sử chỉ là một chuỗi dài những thối tha liên tục, kế tiếp nhau. Ở đó không có sự thật mà cũng không có ảo vọng. Con người không thể trông đợi vào đâu và cũng không thể đi được đến đâu hết.”
      Trong làn ánh sáng xanh leo lét, chết chóc, sự rung động, hoài nghi bi quan trên làn môi của người trẻ tuổi có một vẻ thê thảm đáng kinh sợ.
      Chính Nerzhin đã gieo những tư tưởng hoài nghi ấy vào óc Ruska nhưng giờ đây khi nghe Ruska nói như thế, anh lại muốn chống đối. Trong số những người bạn tù đồng tuổi. Nerzhin vẫn nổi tiếng là người chuyên môn đập phá những thần tượng, nhưng ngay lúc này anh thấy anh có trách nhiệm với người trẻ tuổi này. Vì vậy, anh ngồi nhô người sang giường của Ruska để có thể nói nhỏ mà Ruska vẫn nghe rõ.
      “Ruska… Tôi cần phải nói trước để chú biết, bất cứ chú hoài nghi và bi quan đến chừng nào chú cũng phải nhìn nhận rằng mục đích chính của những người bây giờ là làm cho chúng ta mất tinh thần. Họ chỉ áp dụng lại những biện pháp đàn áp xưa vì họ thấy những biện pháp ấy vẫn còn đem kết quả như ý họ muốn lại cho họ.”
      “Cho tôi xin điếu nữa” – Ruska nói – “Có lợi gì cho họ khi họ ngăn cản không cho tôi học thêm? Tôi có thể tốt nghiệp đại học và học cao hơn. Tôi có thể trở thành một khoa học gia. Tôi có thể viết ra những quyển sách dày, thật dày. Tôi có thể thực hiện những cuộc khảo cứu như… khảo cứu về hệ thống hành chính quận lỵ thời cổ ở Novogrod hoặc về trận chiến tranh giữa Caesar với dân Helvetia. Có biết bao nhiêu là nền văn hóa trên trái đất này! Bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu quốc gia! Trong mỗi quốc gia có biết bao nhiêu người thông mình, biết bao nhiêu là quyển sách hay được viết ra… Và tình yêu…”
      Tiếng nói của Ruska vẫn thì thầm, vẫn khàn khàn nhưng như bay vút lên trời cao khi chàng nói đến tình yêu:
      “Tình yêu. Con người phải có tình yêu. Con người phải yêu. Không yêu lịch sử hay yêu lý thuyết mà là yêu một người đàn bà.”
      Chàng nắm lấy tay áo Nerzhin, giọng đau đớn thê thảm và khẩn thiết:
      “Họ tước đoạt của chúng ta những quyền gì? Thực sự ta bị mất những quyền gì? Nói tôi nghe coi… quyền đi dự mít tinh, quyền mua quốc trái? Điều duy nhất mà Lão Ma Đầu có thể làm chúng ta đau đớn là điều làm cho đời sống của có thể thiếu đàn bà. Và lão đã làm điều ấy. Trong hai mươi nhăm năm trời! Thằng chó đẻ! Ai có thể tưởng tượng được…”
      Chàng nắm hai bàn tay lại tự đấm lên ngực:
      “… một người đàn bà có nghĩa như thế nào với một người đàn ông bị tù?”
      “Coi chừng. Cứ nghĩ như vậy chú sẽ phát điên đó…”
      Nerzhin cố gắng tự trấn tĩnh nhưng một làn sóng đột ngột đến làm cho tâm hồn anh quay cuồng khi anh nhớ tới Simochka, tới lời hẹn hò ngày thứ Hai sắp tới của nàng, anh nói tiếp:
      “Quên ngay ý nghĩ đó đi. Nó có thể làm cho óc chú tê liệt. Mặc cảm Freud hay gì đó… Mẹ kiếp không biết bọn ở ngoài gọi nó bằng cái tên quái quỷ gì. Chuyển năng lực tinh thần của chú sang những địa hạt suy tưởng khác. Tập trung vào triết học. Chú sẽ không cần đến bánh mì, đến nước, đến đàn bà khi chú suy tưởng về triết học.”
      (Nhưng thứ hai này. Chuyện rất thường của những cặp vợ chồng yêu nhau trở thành sự thèm khát bốc cháy trong trái tim một người tù.)
      “Óc tôi đã tê liệt rồi. Tôi sẽ không sao ngủ được cho đến sáng. Một người đàn bà. Tất cả mọi người đàn ông đều cần có một người đàn bà. Cảm thấy nàng rung động trong tay mình. Thấy… Trời ơi… trời…”
      Ruska buông rơi mẩu thuốc hãy còn cháy dở trên tấm mền và không biết và quay vội đi. Chàng nằm úp mặt xuống gối, kéo mền lên phủ kín đầu.
      Nerzhin lượm được mẩu thuốc trước khi nó rơi xuống giường của Potapov bên dưới. Anh dụi mắt nó và bỏ vào bao giấy. Anh chỉ còn phải sống có một ngày, một đêm nữa là được gần Simochka. Trong khoảnh khắc anh tưởng tượng ra tất cả những chi tiết những gì sẽ xảy ra trong ngày thứ Hai. Rồi anh rùng mình gạt bỏ ý nghĩ đó ra khỏi óc. Nghĩ đến nhiều chuyện đó, anh cũng có thể phát điên. Anh ghé miệng xuống tai Ruska:
      “Ruska… Chú… sao? Chú có… người… nào chưa?”
      “Có. Có chứ. Tôi có…”
      Ruska khổ sở trả lời trong tiếng thì thào nghẹn ngào. Chàng nằm ngửa trở lại và ôm xiết cái gối trong vòng tay. Chàng thở vào đó và hơn ấm của chiếc gối, và sức mạnh của tuổi trẻ chan chứa trong cơ thể chàng, sức mạnh bị dồn ép tới chỗ héo quắt, tàn tạ – tất cả làm cho người chàng nóng ran, sứ sống trong tấm thân thể trẻ trung nhưng bị tù đày của chàng đòi hỏi được giải thoát. Chàng nói: “Tôi có”… và chàng nồng nàn muốn tin là chàng đã có… Xong, chàng biết rõ hơn ai hết là chàng vẫn chưa có. Những gì xảy ra chưa có gì đáng kể. Chàng chưa được hôn nàng lấy một cái, chưa được nghe nàng hứa hẹn một lời. Nàng chỉ là người thiếu nữ đã ngồi nghe chàng nói chuyện suốt buổi tối hôm đó với vẻ mặt thiện cảm và thích thú khi chàng kể về đời chàng, người thiếu nữ thứ nhất mà trong ánh mắt nàng Ruska thấy rằng chàng được nhìn như một người hùng trong một chuyện phiêu lưu kỳ thú. Chưa có gì xảy ra giữa họ nhưng những gì đã xảy ra cũng đủ để chàng có quyền nói “có”.
      “Nàng là ai? »
      Gleb hỏi. Và mở hé tấm mền, Ruska trả lời từ trong bóng tối:
      “Clara…”
      “Clara? Cô con gái của lão tổng biện lý ư?”
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #37

       29/7/2011, 10:35

      Tam đầu chế gian dối
      Giám đốc Sở Không Một vừa trình bày xong bản báo cáo của y với Tổng trưởng Abakumov.
      Cao lớn, với mái tóc đen chải ngược về sau ót, mang trên cầu vai áo cặp lon ba ngôi sao của Tướng Ủy viên Đệ nhị hạng, Abakumov uy nghi chống hai cùi chỏ lên mặt bàn rộng. Y to con nhưng không mập bự – y biết giá trị của một hình dáng đẹp và đôi khi y chịu khó chơi quần vợt. Đôi mắt của y là mắt của một người không mắc lừa ai bao giờ, không ai có thể đánh lừa được. Đôi mắt ấy biểu lộ sự nhanh trí, khả năng ứng biến và bản tính đa nghi. Mỗi khi y thấy cần nói một câu nào đó trong lúc Viên Giám đốc Sở Không Một đang báo cáo, viên này vội vã ghi những lời đó xuống giấy.
      Văn phòng của Abakumov, mặc dù không quá rộng, không phải là một văn phòng tầm thường. Trong phòng có một lò sưởi bằng đá vân được để lại từ ngày xưa, lò sưởi này bây giờ không còn được dùng tới nữa, và một tấm gương soi lớn kín cả một bức tường. Trần phòng đắp bằng thạch cao đắp hình hoa lá, có một dàn đèn lớn và những hình thiên thần, tiên nữ đuổi nhau vẽ nhiều màu.
      (Abakumov giữ lại những hình vẽ này, chỉ những nét màu xám bị xóa đi, vì đó là màu mắt y chịu không nổi.) Phòng có một cửa ra ban-công, cửa này bị đóng kín trong hai mùa đông và mùa hạ, và có nhiều cửa sổ lớn nhìn xuống công trường trước Bộ nhưng quanh năm không bao giờ được mở. Trong phòng có nhiều đồng hồ: một đồng hồ thường được gọi là “đồng hồ ông nội” nằm trong vỏ gỗ quý, một chiếc đồng hồ treo tường với một hình tượng nhỏ đánh chuông giờ, trên tường còn treo một đồng hồ điện, loại đồng hồ của các nhà ga xe lửa. Những chiếc đồng hồ này chỉ không đúng giờ nhau nhưng Abakumov bao giờ cũng biết đích xác thời gian là mấy giờ vì y còn có hai chiếc đồng hồ nữa mang trên người y: một đồng hồ đeo tay vàng trên cổ tay lông lá của y, một đồng hồ quả quít nằm trong túi đừng đồng hồ trong áo y.
      Những văn phòng trong tòa nhà này lớn rộng hơn tùy theo địa vị và cấp bậc của chủ nhân cuộc sống. Những bàn viết cũng lớn hơn dần dần. Bàn hội nghị trên trải thảm xanh cũng mỗi phòng một lớn hơn. Tất cả những đồ đạc trong văn phòng của Abakumov đều lớn nhất trong nhà này. Nhưng bức hình Đại-Thống-Chế được đặt trong phòng này lớn nhất, rực rỡ nhất và nổi bật hơn tất cả. Ngay cả trong những phòng thẩm vấn tầm thường nhất cũng có treo những tấm hình Lãnh tụ lớn hơn người thật, nhưng trong văn phòng của Abakumov, bức hình vẽ này trở thành vĩ đại. Vị Chiếc Lược Gia Tài Ba Vô Song của Muôn Đời và Muôn Dân Tộc được vẽ trong một bức tranh cao mười thước, toàn thân, từ đôi giày ủng tới chiếc mũ Thống Chế lưỡi trai, trên ngực áo rực rỡ tất cả những huy chương và biểu chương. (Thực ra, trong đời sống thực, Stalin chưa từng bao giờ mang những huy chương này trên ngực, một số những huy chương này là do Stalin tự phong, số còn lại do những Sứ thần và Tổng thống các quốc gia khác trao tặng.) Chỉ có những huy chương của Yugoslav là không thấy vẽ lên tranh mà thôi.
      Tuy vậy, như để xác nhận rằng ngay cả bức tranh vẽ vĩ đại ấy đứng trong phòng cần phải có hình ảnh Người Bạn Thân Nhất của Chuyên-Viên-Phản-Gián-Điệp ở luôn luôn trước mặt để gợi hứng, y đặt một bức hình chân dung nữa của Stalin trên bàn viết của y.
      Trên một bức tường khác trong phòng treo một bức hình Beria khá lớn. Beria là thượng cấp trực tiếp của Abakumov.
      Sau khi Viên Giám đốc Sở Không Một ra khỏi phòng, có ba người đến trước cửa vào văn phòng Abakumov. Ba người đó là: Ủy viên Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov, Thiếu tướng Oskolupov, Giám đốc Sở Kỹ thuật Đặc biệt và Đại tá Kỹ sư Yakonov, Giám đốc Viện Nghiên cứu Khoa học Mavrino.
      Để biểu lộ lòng tôn kính vị chủ nhân văn phòng này, ba người vào đi theo hàng một, theo cấp bậc. Họ bước theo nhau trên tấm thảm dày, gần như nối gót vào nhau và chỉ có tiếng giày của Sevastyanov là thấp thoáng vang nhẹ.
      Là một ông già bận bộ y phục mà xám, mái tóc cắt ngắn lẫn nhiều sợi bạc, Sevastyanov là ủy viên duy nhất trong số mười ủy viên của Bộ An ninh là thường dân. Trách nhiệm của Sevastyanov ở đây không phải là việc điều tra hoặc hành chánh. Y giữ về liên lạc và kỹ thuật. Vì vậy y ít khi phải chịu đựng những cơn thịnh nộ lôi đình của Tổng trưởng trong những phiên họp kiểm điểm công tác hoặc trong những buổi trình diện nhận chỉ thị, có thể nói Sevastyanov là người thần kinh ít bị căng thẳng nhất Bộ An ninh mỗi khi phải đặt chân vào văn phòng này. Y ngồi ngay xuống chiếc ghế bọc da dày và êm đặt trước bàn.
      Sau khi Ủy viên Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov ngồi xuống, Oskolupov trở thành người dẫn đầu. Yakanov đứng sát ngay sau lưng Oskolupov như để giấu đi thân hình vạm vỡ của y.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #38

       29/7/2011, 10:35

      Abakumov nhìn thẳng vào mặt Oskolupov – người mà y chỉ mới gặp có chừng ba lần từ trước đến giờ – và y thấy trong con người của Oskolupov có một vẻ gì đó làm y có cảm tình. Oskolupov cũng có khuynh hướng trở thành to lớn về thân xác. Cổ y phình ra trên cổ áo và lúc này y cố ý ngửa mặt để cho cái cằm đôi của y khỏi xệ xuống. Bộ mặt nhẵn và trơ như gỗ của Oskolupov là bộ mặt của một người đàn ông chất phác, đơn sơ chỉ biết hành động, không phải là bộ mặt thâm trầm, khinh khỉnh của kẻ tự cho mình là trí thức.
      Chiếu cặp mắt qua vai Oskolupov để nhìn Yakanov, Abakumov hỏi đột ngột và buông thõng:
      “Anh là ai?”
      “Thưa… tôi ạ.”
      Oskolupov cúi mình về phía bàn, hoảng loạn và khổ sở khi thấy đồng chí Tổng trưởng không nhận ra mình là ai.
      “Thưa… tôi ạ.”
      Yakanov cũng nhô người về đằng trước, nhưng y chỉ nhô một chút thôi để ngực y khỏi chạm vào lưng Oskolupov, vì y vẫn đứng sát sau lưng Oskolupov. Lúc này y đang cố gắng giữ cho cái bu nguyện phệ của y khỏi phình ra nhưng y bối rối nhận thấy bụng y mỗi lúc một nở lớn bất chấp những cố gắng kềm giữ của y. Trong đôi mắt mở lớn của Yakanov không có qua một ý nghĩa nào được hiển lộ.
      “Anh và anh…“
      Ngón tay trỏ to tướng của Abakumov đưa ra điểm hai cái vào không khí:
      "Hai anh phụ trách dự án Mavrino phải không? Ngồi xuống."
      Hai người còn đứng trước bàn líu ríu ngồi xuống.
      Tổng trưởng Abakumov đưa cây rọc giấy làm bằng plastic màu hồng ngọc lên gãi nhẹ sau tai và nói:
      "Sao? Các anh đã đùa giỡn với tôi bao nhiêu lâu rồi? Hai năm? Theo chương trình, các anh chỉ có mười lăm tháng để hoàn thành công tác. Bao giờ có máy điện thoại?"
      Và y tiếp bằng một giọng đe dọa.
      "Đừng nói dối. Tôi không thích nghe nói dối."
      Đây chính là câu hỏi mà ba viên chức cao cấp ngành dối trá đã chuẩn bị để trả lời ngay từ khi họ được biết là họ được gọi tới cùng một lúc để hỏi. Theo sự xếp đặt trước, Oskolupov là người đầu tiên lên tiếng nói. Y nói với đôi bờ vai vuông đẩy đẩy ra đằng trước như chính đôi vai vuông ấy đẩy tiếng nói ra khỏi miệng Y:
      “Thưa đồng chí Tổng trưởng… Thưa đồng chí Đại tướng… Xin đồng chí cho tôi được trình bày trước hết rằng toàn thể nhân viên đều phục vụ với một tinh thần…”
      Bộ mặt Abakumov để lộ vẻ ngạc nhiên:
      “Anh tưởng anh đang ngồi ở đâu đây? Đây đâu phải là hội nghị. Tôi cần tinh thần của anh để làm cái gì? Để xuống đít ngồi lên ư? Tôi hỏi anh: Bao giờ? Ngày nào?”
      Bây giờ, cũng theo như xếp trước, đến lượt Yakanov. Lối nói và nhất là giọng nói trầm, nhỏ của y cho người nghe hiểu rằng y nói với tư cách là chuyên viên kỹ thuật chứ không phải là một nhân viên điều hành:
      “Kính thưa đồng chí Tổng trưởng… trong một hệ thống siêu tần cao tới 2.400 chu kỳ cho ta một cường độ truyền thanh ở mức zéro điểm chín…”
      “Chu kỳ, chu kỳ…! Zéro điểm chu kỳ… Zéro … Các anh sản xuất ra… Zéro… Siêu tần… zéro… Mẹ kiếp… Tôi muốn có máy điện thoại. Hai giàn máy. Bao giờ tôi có? Hả?”
      Bây giờ đến lượt Sevastyanov lên tiếng. Y nói chậm và nhỏ, vừa nói vừa lùa những ngón tay vào mái tóc thưa và xám:
      “Xin cho chúng tôi biết đồng chí nghĩ như thế nào? Về máy điện thoại, chúng tôi đang chế tạo máy thâu phát ám hiệu…”
      Abakumov trừng mắt:
      “Đồng chí coi tôi là một thằng ngu hay sao? Máy thâu phát ám hiệu là cái quỷ gì? Tôi cần gì biết đến chuyện các người đang làm gì hay mấy người ăn không.”
      Mười lăm năm trước đây, khi không một ai trong cõi đời này, kể cả Abakumov, lại nghĩ rằng có ngày y trở thành Tổng trưởng, khi y còn là một tống thư văn của Sở Mật vụ – thời đó Abakumov là một gã trai khoẻ mạnh, rắn rỏi, có cặp chân dài và đôi tay dài – bốn năm trời học ở bậc tiểu học đã cung cấp cho y có được số vốn học vấn đủ dùng. Từ đó y “tự tiến bộ” hoàn toàn nhờ ở những đòn Jiujitsu và trường huấn luyện chuyên môn của y là phòng tập võ của Hội quán Thể thao Dynamo.
      Thế rồi, trong những năm ngành mật vụ phát triển và nhân viên mật vụ được thay mới, tăng thêm người ta thấy rằng Abakumov là một chuyên viên thẩm vấn có biệt tài và làm việc thật hữu hiệu, đôi tay dài và cứng của y là những lợi khí khi cần phải tra tấn người khác. Sự nghiệp lớn của y bắt đầu thành hình. Sau bảy năm hành nghề tra tấn người, Abakumov trở thành Chánh sở Phản gián SMERSH và bây giờ, y trở thành Tổng trưởng. Không một lần nào trong cuộc trèo dài dằng dặc ấy y cảm thấy y thiếu thốn về học vấn. Ngay cả bây giờ ngồi ở chức vụ cao nhất cái Bộ quan trọng nhất này, những thuộc cấp của y cũng không một người nào có thể lừa được y hay ngầm coi thường y.
      Và khi nghe Sevastyanov nói ra câu trên đó, cơn giận của Abakumov nổ ra. Y giơ nắm tay lớn như cái búa sắt lên định nện xuống mặt bàn. Cánh cửa phòng bỗng mở ra và một gã đàn ông thấp nhỏ với đôi má trắng hồng bước vào phòng không cần gõ cửa. Gã này là Mikhail Dmitriyevich Ryumin. Nhân viên cả Bộ gọi gã là “Minka” – Nhưng ít có người dám gọi gã bằng cái tên này trước mặt gã.
      Gã lướt đi nhanh và êm như một con mèo. Khi đến gần bàn, gã bao bọc cả ba người ngồi đó trong một tia nhìn. Gã bắt tay Sevastyanov và Sevastyanov nhổm người dậy, rồi gã đi tới đứng ở đầu bàn, cúi người xuống gần Abakumov, gã nói với vẻ mặt suy nghĩ:
      “Victor Semyonovich… ông nên nghe tôi. Nếu chúng ta phải phụ trách vụ này, chi bằng giao hết cho Sevastyanov. Tại sao mình lại để cho họ ăn không nhỉ? Họ có thể nhận ra được tiếng một người ghi trên băng nhựa hay không? Nếu không, tống cổ họ ra hết…”
      Trong khi miệng nói những câu đó, gã vẫn cười ngọt ngào như khi gã mời một cô bé ăn kẹo sô-cô-la. Gã nhìn ba kẻ có thể là nạn nhân của lời gã ngồi đó bằng đôi mắt vuốt ve, trìu mến.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #39

       29/7/2011, 10:36

      Trong nhiều năm trời Ryumin sống hoàn toàn là một gã vô danh không được ai biết đến. Gã từng giữ chân ủy viên kích thước của Hợp tác xã Tiêu thụ Tỉnh Archangel. Má hồng và trắng trẻo, gần như mũm mĩm, với đôi môi mỏng luôn luôn mím chặt, hờn giận, gã hành hạ tận tình những nhân viên dưới quyền gã bằng những câu nói đểu giả, tàn nhẫn nhất mà gã có thể nghĩ ra được, trong lúc đó gã chia phần bớt xén, biển thủ với bọn chuyên chở, thảo luận chính trị với những bác tài xế xe hơi, tỏ ra khinh mạn những người đánh xe ngựa lạc hậu và đặt những bản thống kê thành tích toàn hảo lên bàn ông Chủ tịch Hợp tác xã đúng lúc cần đến.
      Chiến tranh xảy ra, Ryumin được thâu nhận vào Hải quan và ở đây, người ta làm cho gã trở thành chuyên viên thẩm vấn của Sở An ninh Đặc vụ. Gã thích thú việc làm này và chẳng bao lâu gã thành công trong việc dựng đứng lên cả một vụ gián điệp vu cáo cho một phóng viên nhật báo hoàn toàn vô tội được phái đi viết phóng sự về Hạm đội Miền Bắc. Nhưng đây là vụ vu cáo đầu tiên trong đời gã, gã thực hiện nó lộ liễu và trắng trợn quá đến nổi Văn phòng Tổng Biện lý – vì không dính líu tới việc làm của ngành mật vụ – yêu cầu Văn phòng Tổng trưởng Abakumov điều tra vụ này. Chú chuyên viên thẩm vấn bé nhỏ của Ban SMERSH trên Hạm đội miền Bắc bị gọi về Tổng Bộ để chịu khiển trách. Gã sợ hãi bước vào văn phòng Abakumov để nhận lãnh những gì ghê gớm chờ đợi gã ở đó. Cánh cửa đóng lại. Khi cánh cửa mở ra cách đó một tiếng đồng hồ, Ryumin từ bên trong bước ra với vẻ mặt quan trọng – y vừa được Tổng trưởng cử giữ chức chuyên viên tình hình chính thức của SMERSH Trung ương, chuyên phụ trách thẩm vấn những vụ tối quan trọng. Kể từ ngày đó, ngôi sao của gã sáng đều và lên đều.
      “Tôi sẽ lo cho họ, Mikhail Dmitriyevich Ryumin. Ông tin đi. Tôi sẽ đặc biệt lo chọ họ. Thân nhân họ sẽ không còn nhận ra họ được nữa…”
      Abakumov gằn giọng nói, mắt y nhìn trừng trừng đe dọa ba gã đàn ông ngồi rúm ró trước mặt y.
      Cả ba gã này đều cúi mặt xuống như những kẻ phạm tội.
      “Tôi sẽ đưa cho họ những băng nhựa thâu tiếng nói. Họ có thể nghe lại và so sánh, tìm ra…”
      Ryumin nói và Abakumov hỏi vội:
      “Ồ… bắt được ai chưa?”
      “Rồi. Nhất định là phải rồi chứ” – Ryumin trả lời với nụ cười ngọt – “Chúng tôi bắt được bốn tên tình nghi ở gần ga xe điện ngầm Arbat.”
      Nhưng bộ mặt tươi tỉnh của Ryumin thoáng trầm xuống. Gã biết rõ hơn ai hết là những kẻ bị bắt đó đã bị bắt quá muộn, họ đều là những người bị nghi oan và bắt oan. Tuy nhiên, một khi đã bị bắt, dù có tội hay không những kẻ đó sẽ không bao giờ, mãi mãi không bao giờ còn được thả ra nữa. Họ sẽ bị giữ mãi và khi cần đến, họ sẽ phải nhận tội chỉ vì chấp nhận tình trạng có vụ án không tìm ra manh mối.
      Giọng nói của Ryumin vừa có những âm thanh bất mãn vừa đề nghị:
      “Tôi có thể ghi tiếng nói của một nửa tổng số nhân viên Bộ Ngoại giao lên bằng nhựa nếu ông Tổng trưởng muốn. Xong tôi nghĩ việc đó không cần thiết. Chỉ có sáu hoặc bảy người ở đó khả nghi mà thôi – họ là những người duy nhất được biết vụ đó.”
      Abakumov giận dữ:
      “Sao không bắt hết lũ chó ấy đi? Còn chờ gì nữa? Bảy người, Liên bang mình vĩ đại lắm, mất đi bảy tên đâu có ăn thua gì.”
      “Ông không thể bắt họ như thế được” – Ryumin phản đối. “Đó là một Tổng Bộ trong chính phủ, đó không phải là một xưởng máy chế tạo thực phẩm và làm thế, chúng ta sẽ mất hết dấu vết. Trong vụ này, chúng ta cần phải tìm đúng kẻ có tội là ai. Và phải tìm ra cho mau.”
      “Hừm…”
      Abakumov suy nghĩ và nói lớn lên ý nghĩ:
      “So sánh băng ghi âm này với băng ghi âm kia, tìm xem hai tiếng nào cùng của một người nói. Hay đấy. Sẽ có ngày mình phải nắm vững được kỹ thuật này. Sevastyanov, ông làm nổi việc này không?”
      “Thưa… tôi vẫn chưa hiểu gì cả…”
      “Có gì rắc rối đâu mà không hiểu. Không có gì hết. Có một thằng chó đẻ, một thằng khốn nạn nào đó – chắc chắn phải là một nhà ngoại giao nếu không hắn không sao có thể biết được chuyện này, gọi điện thoại đến cho một lão giáo sư. Tên lão giáo sư ấy là gì nhỉ?”
      “Dobroumov…” Ryumin nhắc.
      “Ừ, Dobroumov. Một lão bác sĩ. Nói vắn tắt là lão bác sĩ ấy vừa mới xuất ngoại sang Pháp trở về, trong khi ở trên đất Pháp lão có hứa sẽ gửi cho bọn bác sĩ Pháp một thứ thuốc mới do lão sáng chế – lão ôn dịch gọi đó là trò trao đổi kinh nghiệm và kiến thức y học. Nhưng lão quên rằng tổ quốc lão phải được hưởng ưu tiên thứ thuốc sáng chế đó. Chúng tôi muốn cho lão gửi đi số thuốc đó để bắt lão quả tang. Vụ án của lão sẽ là một vụ án chính trị lớn làm gương cho bọn khoa học gia hèn hạ nịnh bợ ngoại quốc. Nhưng có một thằng chó đẻ nào đó biết chuyện này và đã gọi điện thoại đến cho lão bác sĩ, bảo lão đừng gửi thuốc cho. Chúng ta vẫn sẽ bắt lão bác sĩ và lão phải nhận tội như thường, nhưng vụ này như vậy là đã mất một nửa giá trị. Sao? Các người nghĩ sao? Nếu các người tìm được ra tên này, các người sẽ nổi tiếng ghê gớm.”
      Sevastyanov nhìn qua mặt Oskolupov sang Yakanov. Yakanov để mắt y chạm vào tia nhìn của Sevastyanov và lông mày của y hơi nhếch lên. Với cái nhếch lông mày này Yakanov muốn nói rằng việc tìm tiếng người nói điện thoại được ghi lên băng nhựa là một nghệ thuật mới lạ cần có một thời gian dài để nghiên cứu, tìm hiểu, thí nghiệm, và hiện lúc này Viện Mavrino còn đang chết dở vì công tác chế tạo máy điện thoại đặc biệt, không nên nhận thêm công tác mới. Sevastyanov cũng thông minh để hiểu ý nghĩ cái nhếch lông mày của Yakanov và tình thế khó khăn y chuẩn bị để trả lời lửng lơ câu hỏi của Abakumov.
      Nhưng Foma Guryanovich Oskolupov lại có những ý nghĩ riêng về việc làm của y. Y không muốn y chỉ là anh giám đốc bù nhìn. Ngay từ khi y được tin y được cử làm Giám đốc, y đã tin chắc ở tài năng của y, ở giá trị cá nhân của riêng y và nghĩ rằng y làm chủ tất cả mọi vấn đề và có thừa khả năng giải quyết những vấn đề rắc rối nhất khéo léo hơn tất cả mọi người khác. Nếu không thế, người ta đã chẳng đề cử y. Tuy ngày xưa, y chưa học được đủ bảy năm ở nhà trường, nhưng bấy giờ không bao giờ y chịu rằng những thuộc cấp của y lại có thể hiểu biết về những việc làm hơn y. Họ có thể biết rõ hơn y về một phần nào đó của vấn đề, về chi tiết của bộ máy, về một đồ hình, nhưng họ không thể biết hơn y về đại thể. Cách đây không lâu, y từng có dịp đến nghỉ mát ở một khu nghỉ mát hạng nhất dành riêng cho những viên chức cao cấp và những khoa học gia làm việc với chính phủ. Ở đây y tự giới thiệu với mọi người y là một giáo sư điện tử. Y gặp ở đây một văn sĩ nổi tiếng và nhà văn này không sao có thể rời mắt nhìn Foma Guryanovich, nhà văn quan sát y và ghi những điều nhận xét vào cuốn sổ tay. Nhà văn cho y biết là ông sẽ diễn tả hình dáng của một nhà khoa học thời đại này theo hình dáng của Foma Guryanovich. Từ đó, Foma biết chắc rằng y là một nhà khoa học chính cống.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #40

       29/7/2011, 10:53

      Đột ngột, Foma Guryanovich nhảy vào cuộc đối thoại:
      “Thưa đồng chí Tổng trưởng… chúng tôi có thể làm được.” Sevastyanov nhìn y ngạc nhiên:
      “Làm ở đâu? Ở phòng thí nghiệm nào?”
      “Ở phòng thí nghiệm Âm Thính của Viện Mavrino. Ở đó chúng ta đang nghiên cứu về điện thoại. Họ cũng gọi điện thoại cho nhau mà.”
      “Nhưng Mavrino đang bận thực hiện dự án khác quan trọng hơn…”
      Oskolupov quả quyết:
      “Không sao. Chúng ta sẽ tìm được người. Chúng ta có những ba trăm người ở Mavrino kia mà. Ta có dư người để phụ trách thêm vụ này.”
      Và y nhìn ông Tổng trưởng của y với vẻ mặt của kẻ sẵn sàng thi hành mệnh lệnh.
      Tuy Abakumov không hề mỉm cười nhưng một lần nữa trên mặt y hiện ra vẻ hài lòng, một lần nữa y thấy có cảm tình với Oskolupov. Thái độ này cũng từng là thái độ của y trong thời gian y hãy còn trẻ và đang xây dựng sự nghiệp – nghĩa là hăng hái, sẵn sàng làm tất cả mọi việc cấp trên muốn, giết bất cứ ai nếu cần. Một người trẻ hơn mình mà giống mình bao giờ cũng làm cho mình có cảm tình.
      “Được lắm. Khá lắm” – Abakumov nói. “Đó là thái độ đúng: quyền lợi của quốc gia trên hết, những cái khác dẹp lại sau. Đúng không?”
      “Thưa đúng. Đồng chí Tổng trưởng nói rất đúng.”
      Ryumin không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên, gã cũng không có vẻ nể nang hay chú ý đến Oskolupov hơn trước. Mặc dù Oskolupov là người nhận làm công tác này và Sevastyanov có vẻ muốn từ chối, Ryumin vẫn nói với Sevastyanov:
      “Sáng mai sẽ có tin mới cho ông.”
      Gã liếc nhìn Abakumov rồi lặng lẽ ra khỏi phòng.
      Vị Tổng trưởng đưa món tay vào miệng cạy một miếng thịt dắt ở chân răng từ bữa ăn tối:
      “Bây giờ trở lại vụ máy điện thoại. Bao giờ đây? Các anh đã lẩn trốn tôi quá nhiều. Không biết bao nhiêu lần khất – mùng một tháng tám, rồi ngày nghỉ tháng chín, rồi ngày đầu năm. Sao?”
      Y chiếu cặp mắt của Yakanov, bắt buộc Yakanov phải trả lời.
      Yakanov có vẻ như đang khó chịu dữ dội vì cần cổ của y. Y nhích cổ sang bên trái, rồi nhích cổ sang bên phải, đôi mắt xanh của y nhìn vào mắt Abakumov trong vài giây rồi nhìn xuống.
      Yakanov biết y là người có tài. Yakanov biết rằng nhiều kẻ khác còn có nhiều tài hơn y đang tập trung hết tư tưởng và tài năng để làm việc mỗi ngày mười bốn tiếng đồng hồ không hề có một ngày nghỉ từ hơn một năm trời nay để chế tạo ra dàn máy điện thoại mà Abakumov đang đòi hỏi. Và còn có không biết bao nhiêu là nhà khoa học ngoại quốc sống rải rác khắp nơi trên mặt đất này, những người công bố những phát minh của họ với đầy đủ chi tiết trên những tờ đặc san chuyên khoa, cũng đang tìm cách chế tạo dàn máy đó. Yakanov cũng biết rõ về cả ngàn những khó khăn đã được vượt qua nhưng đó cũng mới chỉ là bước đầu. Giữa cả chục ngàn những khó khăn đang phải đối phó, giải quyết, nhưng kỹ sư làm việc dưới quyền điều khiển của y ở Mavrino như người người đang bơi qua biển. Chỉ còn sáu ngày nữa là đến hạn chót, hạn chót của tất cả những hạn chót mà y đã năn nỉ, đã xin được ở đống thịt bận bộ quân phục kia. Y đã bị kẹt cứng vì một chỗi những hạn kỳ ngu xuẩn bởi vì bị Lãnh tụ Anh minh, Người Hướng dẫn Khoa học của Thế giới Cộng sản đã ngay từ đầu, đặt thời hạn một năm cho một công việc cần đến mười năm để thực hiện.
      Hồi nãy khi gặp nhau trong văn phòng của Sevastyanov, họ đã đồng ý xin hoãn lại mười ngày. Họ hứa sẽ giao hai giàn máy điện thoại đặc biệt vào ngày mười tháng giêng, Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov quyết định như thế. Oskolupov cũng muốn như thế. Họ tính toán rằng từ nay đến đó họ sẽ có thể làm xong được hai giàn máy điện thoại, tuy chưa hoàn hảo, ngh cũng đã có hình thể, cũng có thể kể là một phát minh mới. Họ sẽ xin thí nghiệm thêm cho thật hoàn hảo trước khi đưa máy được trước mặt Lãnh tụ. Trong thời gian ấy, việc nghiên cứu ở Mavrino vẫn tiếp tục và rồi họ sẽ viện ra những khó khăn mới để xin triển hạn. Nhưng Yakanov cũng lại biết rằng những vật vô tri, nhất là những máy móc, không hề biết đến những hạn kỳ, những mệnh lệnh, và tới ngày mười tháng giêng, hai giàn máy điện thoại được y đệ trình sẽ không truyền đi tiếng người, chúng sẽ chỉ truyền đi những tiếng động chói tai và những gì đã xảy đến với Mamurin nhất định sẽ lại xảy đến với Yakanov. Lãnh tụ sẽ gọi Beria và nói: “Thằng khùng nào làm ra cái máy này đây? Tống cổ nó đi…”. Và Yakanov sẽ trở thành một Người Mặt Sắt nếu y còn may mắn, rất có thể y sẽ chỉ là một tù nhân thường.
      Dưới mắt nhìn của Abakumov, với cảm giác nút thòng lọng đang thắt chặt dần cổ, Yakanov vượt lên được cơn sợ hãi khốn khổ, khốn nạn của y và cũng tự nhiên như khi y hít thở khí trời vào phổi, y thốt lên:
      “Xin cho thêm một tháng nữa. Thêm một tháng nữa. Tới mùng một tháng hai.”
      Y nhìn Abakumov bằng đôi mắt van xin của một con chó.
      Những người có tài ở cõi đời này thường tỏ ra tàn nhẫn và bất công với những người có tài khác. Thực ra, Abakumov tinh khôn hơn là Yakanov tưởng nhiều nhưng sau một thời gian dài không dùng đến, trí óc đã trở thành một cái gì vô-giá-trị với Abakumov. Trong suốt sự nghiệp của y, Abakumov đã thua, đã thất bại mỗi lần y suy nghĩ và làm theo ý của y, đã thắng khi y làm theo lòng trung thành và theo lệnh. Vì vậy Abakumov chỉ làm bận đến trí óc y càng ít chừng nào càng tốt.
      Y có thể hiểu rằng sáu ngày hay một tháng không có nghĩa lý gì hết so với hai năm trời đã qua. Nói cách khác, nếu trong hai năm trời mà không làm xong thì cho thêm một tháng nữa cũng vô ích. Nhưng trước mắt y, bộ tam-đầu-chế dối trá này là những kẻ có lỗi – Sevastyanov, Oskolupov, Yakanov là ba tên có lỗi và phải chịu lỗi. Nếu công tác khó khăn như thế, tại sao khi chúng nhận việc trước đây hai mươi ba tháng, chúng lại nhận hạn kỳ một năm? Tại sao chúng không đòi ba năm? (Bây giờ y đã quên rằng chính ý đã ra hạn một năm và ép buộc ba người kia phải nhận.) Nếu chúng nhất định không chịu nhận hạn kỳ một năm thì y cũng đã không chịu hạn kỳ một năm với Stalin, y đã đòi cho bằng được hạn kỳ hai năm để rồi kéo dài ra thành ba năm.
      Nhưng y quên rằng chính y, y cũng không dám nói gì hết về những hạn kỳ do Stalin đưa ra. Nỗi sợ hãi tiêm nhiểm vào óc họ quá nhiều trong quá nhiều năm quen vâng lệnh như những tên nô lệ nên không một ai trong bọn họ, trước kia cũng như bây giờ, dám có can đảm chống lại can đảm ý muốn của cấp trên.
      Abakumov cũng đã lo xa để dành riêng cho y được vài tháng. Y hứa với Stalin là máy điện thoại đặc biệt sẽ được trình vào ngày một tháng ba. Vì vậy, y có thể cho bọn này thêm một tháng và y cũng vẫn còn một thán để xoay trở.
      Cầm cây viết máy lên, Abakumov hỏi:
      “Anh nói một tháng là thế nào? Một tháng đúng hay anh lại nói láo lần nữa?”
      “Một tháng. Một tháng đúng…”
      Người nói câu này là Oskolupov. Mặt y tươi lên khi thấy cấp trên chấp thuận. Y có vẻ hăm hở như người ra khỏi đây là lập tức đi thẳng tới Mavrino ngồi vào bàn làm việc.
      Với một cái ngoáy bút, Abakumov viết lên tập lịch để bàn:
      “Rồi. Cho các người đến ngày 21 tháng giêng, ngày Kỷ niệm Lênin qua đời. Đúng ngày đó các người sẽ được lãnh giải Stalin. Sevastyanov… ngày đó có máy không?”
      “Dạ… có.”
      “Oskolupov … Có không? Đến ngày đó mà không có, tôi lấy đầu anh thế cho máy ạ…”
      “Dạ… có. Thưa Đồng chí Tổng trưởng… tất cả những gì cần làm chỉ là…”
      “Còn anh? Anh có biết những gì sẽ xảy đến với anh nếu anh hứa láo không? Đến ngày 21 tháng Giêng có máy không?”
      Thâu hết can đảm, Yakanov nằn nì:
      “Xin cho một tháng. Ngày mùng một tháng hai…”
      “Nếu đến ngày mùng một tháng hai vẫn không có máy thì sao? Cẩn thận. Nói phải đúng. Tôi biết anh đang nói dối…”
      Tất nhiên là Yakanov đang nói dối. Đáng lý ra y phải xin thêm hai tháng nữa, nhưng đã lỡ rồi, y đành hứa bằng một giọng âu sầu:
      “Thưa… có.”
      “Được rồi. Nhưng các người nhớ nghe… Tôi không có bắt các người phải hứa với tôi như thế. Tôi có thể tha thứ được hết trừ những kẻ nào lừa dối tôi. Cho các người đi.”
      Ba kẻ thoát nạn líu ríu đi ra. Họ cũng đi theo hàng một, kẻ nọ nối gót kẻ kia, mắt họ nhìn xuống trước bức tranh Stalin cao kín bức tường.
      Nhưng họ đã mừng quá sớm. Họ không biết rằng vị Tổng trưởng của họ đã giương một cái bẫy cho họ chui vào.
      Ba người này vừa ra khỏi phòng được vài phút thì một người khác được đưa tới văn phòng. Tên người này được báo trước với Abakumov:
      “Kỹ sư Pryanchikov.”

      Chú thích:
      [1]Ilya Ehrenburg, văn sĩ Nga, tác giả những quyển tiểu thuyết Cơn bão, Cuộc sa đọa (La Tempete, La Chute) viết về đời sống của dân Nga và dân Đức trong Thế chiến thứ hai, được giải Văn chương Stalin.
      [2]Auschwitz, tên một lò sát sinh do Đức Quốc xã lập lên để giết người Do Thái. Lò nằm trên đất Đức. Trong đó có lò hơi ngạt kiêm lò đốt xác người. Nạn nhân bị lùa vào phòng cả ngàn người cùng một lúc, bị xì hơi ngạt cho chết rồi xịt lửa đốt ra tro than ngay trong đó.
      [3]Theodor Mommsen, sử gia người Đức, sinh năm 1817, mất năm 1903, tác giả nhiều bộ sử về văn minh cổ Hy Lạp và La Mã.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #41

       29/7/2011, 10:53

      Không có nước sôi pha trà
      Đêm đó theo lệnh của Abakumov và do Sevastyanov truyền lại, Yakanov được gọi đến Bộ An ninh từ Viện Mavrino. Sau đó, có hai lệnh mật được gọi bằng điện thoại tới Viện Mavrino, mỗi lệnh tới cách nhau mười lăm phút, lệnh trước là lệnh đưa tù nhân Bobynin, lệnh sau là lệnh đưa tù nhân Pryanchikov về Bộ. Bobynin và Pryanchikov được đưa về trên hai chiếc xe khác nhau và được để ngồi chờ ở hai phòng đợi khác nhau, đề phòng họ đụng mặt nhau.
      Nhưng dù hai tù nhân này có gặp mặt nhau, họ cũng không thể nói gì được với nhau, không thể hiểu ngầm nhau. Nói rõ hơn, Pryanchikov sẽ không sao có thể hiểu được Bobynin muốn gì ở chàng.
      Linh hồn Pryanchikov đang rung động vì ánh đèn đêm ở Mạc Tư Khoa, những ánh đèn sáng lòa, lấp lánh, rực rỡ ở hai bên cửa chiếc xe Podeba. Đi từ vùng ngoại thành tối tăm quanh Mavrino vào trung tâm thành phố, Pryanchikov ngây ngất khi nhìn thấy hiện ra những đại lộ sáng choang, những cửa nhà ga xe điện ngầm đầy người, những cửa hàng rực ánh đèn néon. Pryanchikov quên mất người lái xe và hai nhân viên mật vụ bận thường phục ngồi hai bên chàng, dường như không phải là không khí mà là lửa được hít vào và thở ra từ lồng ngực chàng. Không lúc nào chàng rời mắt nhìn qua cửa xe. Chưa bao giờ họ đưa chàng vào Mạc Tư Khoa ngay cả ban ngày, và trong lịch sử Nhà Tù Đặc Biệt Mavrino, chưa từng có một tù nhân nào được nhìn thấy Mạc Tư Khoa ban đêm.
      Tới cửa Sretenka, chiếc xe chở Pryanchikov phải dừng lại chờ đám người vừa từ nhà hát bóng cuồn cuộn đi ra và sau đó, dừng lại ở ngã tư đường chờ đèn hiệu.
      Tất cả những người tù trên cõi đời này đều chẳng ít thì nhiều nghĩ rằng con cái bên ngoài, vì không có họ, đã dừng lại, bên ngoài đã hết nhẵn đàn ông và những người đàn bà cô đơn vì thiếu họ, hệ thống còn vui vẻ, đàn bà đau khổ, âu sầu hết còn trưng diện vì tình yêu họ và lòng trung thành với họ. Và đây, trước mắt Pryanchikov hiện ra đám đông no đủ, rộn rịp gồm những người đang sống ở thành phố – mũ, mạng che mặt, nữ trang, áo lạnh lông thú – và mùi hương của những người đàn bà qua đường tràn đầy cảm xúc run rẩy của người thanh niên ba mươi mốt tuổi, mùi đàn bà ấy đi qua sương đêm, qua thanh sắt của chiếc xe, đến đập vào chàng như những nhát búa. Chàng có thể nghe được tiếng họ nói, nhưng vang vang không rõ, chàng muốn lao đầu qua làn kiếng cửa xe ra ngoài để nói lớn với họ, với những người đàn bà đang đi trước mặt chàng, rằng chàng còn trẻ, chàng đang cần yên, chàng bị người ta nhốt vào tù không chút xót thương, chàng bị tù nhưng không có tội gì cả. Sau cuộc sống cô đơn khổ tù trong tòa nhà đá ở Mavrino, cảnh sắc này là một giấc mơ thần tiên. Ngay cả thời còn tự do Pryanchikov cũng chưa bao giờ được sống cuộc sống thanh lịch mà chàng thấy trước mắt kia, khi còn là sinh viên, chàng quá nghèo, rồi chiến tranh đến chàng nhập ngũ và bị bắt làm tù binh, rồi hết chiến tranh và chàng bị tù ở chính trên quê hương chàng.
      Sau đó, trong khi ngồi trong phòng đợi, Pryanchikovvẫn còn mê mẩn, chàng không nhìn rõ những cái bàn, cái ghế quanh chàng, những cảm giác ngây ngất vẫn chưa chịu từ bỏ chàng.
      Một Trung tá gọn ghẽ, sáng sủa bảo chàng đi theo. Pryanchikov, với cần cổ ngẳng và đôi cổ tay khẳng khiu, đôi vai hẹp, đôi chân gầy chưa bao giờ trông tang thương bằng khi chàng bước vào căn phòng rộng do người sĩ quan đưa chàng tới. Người sĩ quan này dừng lại ở cửa và chỉ một mình Pryanchikov bước vào phòng.
      Căn phòng rộng đến nỗi Pryanchikov không nhận ra đó là một văn phòng, chàng cũng không nghĩ rằng người đàn ông với đôi cầu vai dát vàng ngồi tít ở tận xa kia là chủ nhân căn phòng này. Chàng cũng chẳng nhìn thấy bức hình Stalin cao tới mười thước choán hết một bức tường. Mạc Tư Khoa ban đêm và những người đàn bà đi trong đêm Mạc Tư Khoa vẫn còn chập chờn ẩn hiện trước chàng. Chàng như người say rượu. Chàng như người hoang mang không biết tại sao mình lại đi vào căn phòng rộng thênh thang này và phòng này là phòng gì? Chuyện lạ và khó hiểu hơn nữa là trong một căn phòng hình cánh quạt chật ních những chiếc giường hai tầng và giường nào cũng có người nằm ở một nơi nào đó được chiếu sáng bằng một bóng đèn xanh – dù chiến tranh đã chấm dứt từ năm năm trước – có một ly nước trà nguội còn chờ đón chàng trở lại.
      Chân chàng đi trên tấm thảm rộng. Thảm dầy và êm và chàng muốn nằm lăn xuống đó. Ở bên tường bên phải gian phòng có nhiều khung cửa sổ, bên tường trái gian phòng có một tấm gương lớn cao từ mặt sàn tới tận trần.
      Những người ở bên ngoài không biết được giá trị của vật dụng. Với một người tù quanh năm chỉ được dùng cái gương soi mặt lớn không quá lòng bàn tay, có khi cả năm sáu tháng không được nhìn thấy mặt trong gương, việc được nhìn ngắm toàn thân mình trong một tấm gương lớn là cả một việc quan trọng.
      Pryanchikov như bị nam châm hút lại, đứng sững trước tấm gương. Chàng nhìn chàng hiện ra trong đó rồi chàng đến sát gương, ngắm nghía với vẻ hài lòng hiện rõ trên khuôn mặt tươi trẻ, sạch sẽ của chàng. Chàng sửa lại cổ áo và xốc lại hai tay áo. Rồi vẫn nhìn vào gương, chàng từ từ đưa chân lùi lại rồi chàng nghiêng người sang bên và cố liếc mắt nhìn xem mặt nghiêng của chàng hình dáng ra sao. Chàng quay sang trái rồi quay sang phải. Hai chân chàng di chuyển như đi vài bước khiêu vũ và chàng lại đến sát gương, nhìn ngắm mặt chàng kỹ hơn trong đó. Sau cùng, thấy rằng mặc dù bộ y phục màu xanh bạc màu quá cũ này, mình vẫn thanh nhã và cân đối lắm, với sự hài lòng, phấn khởi trong tâm hồn, Pryanchikov đi tới – chàng đi tới không phải vì chàng biết rằng trong gian phòng này có người chờ đợi chàng mà chỉ là vì chàng cần đi để xem xét hết phòng.
      Người đàn ông có thể nhốt vào tù bất cứ ai trong một phần nửa thế giới, nhà Tổng trưởng độc tài từng làm những vị tướng lãnh, thống chế sợ đến xanh mặt, ngồi nhìn gã tù nhân gầy gò với một vẻ chú ý tò mò. Lâu rồi y không có dịp nhìn kỹ một người trong số nhiều triệu người đã bắt, đã kết án, đã cho vào nhà tù, vào những trại tập trung.
      Với dáng điệu của một chàng công tử đi dạo phố, Pryanchikov đi đến trước bàn và nhìn như dò hỏi vào mặt Abakumov như chàng không ngờ có người ngồi ở đó.
      "Anh là kỹ sư Pryanchikov?"
      Abakumov lên tiếng hỏi, tay y xếp lại những giấy tờ trên bàn.
      "Phải," Pryanchikov lơ đãng đáp "Phải, tôi."
      "Anh là những cầm đầu toán chuyên viên ở Mavrino làm việc về… về…"
      Abakumov xem lại tờ giấy:
      "Về máy Phân-Hóa Âm Thanh Nhân Tạo?"
      "Cái gì là máy phân hóa âm thanh nhân tạo?" Không trả lời vào câu hỏi, Pryanchikov nói sang chuyện khác, "Ai bày đặt ra cái tên gọi ngớ ngẩn vậy? Chúng tôi không dùng cái tên đó. Chúng tôi gọi nó là giàn máy Ám-Hiệu Âm-Thanh nhân. Tắt là Âm Thanh cho tiện."
      "Nhưng anh là kỹ sư trưởng toán?"
      "Trên nguyên tắc thì là tôi, nhưng có chuyện gì vậy?"
      Đột nhiên Pryanchikov trở thành đề phòng.
      "Ngồi xuống."
      Không chờ mời đến câu thứ hai, Pryanchikov ngồi ngay xuống ghế, chàng cẩn thận kéo cho ống quần thẳng nếp.
      "Tôi muốn anh nói thật, nói thật hoàn toàn, anh không sợ rắc rối vì những người có quyền ở đó. bao giờ cái máy Âm Thanh được chế tạo xong? Tôi muốn nói là bao giờ dùng được? Cứ nói thật. Một tháng nữa hay hai tháng? Cứ nói, đừng sợ gì hết."
      "Máy Âm Thanh? Sắp dùng được? Ha ha ha."
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #42

       29/7/2011, 10:54

      Tiếng cười tươi trẻ và trong như tiếng chuông của Pryanchikov vang lên. Chưa bao giờ giữa những bức tường này lại rộn ràng tiếng cười như thế. Chàng ngồi dựa lưng lên thành ghế và giơ hai bàn tay ra trước mặt:
      "Ông nói cái gì? Ông nghĩ gì mà lại hỏi như thế? Rõ ràng là ông không hiểu máy Âm Thanh là cái gì. Để tôi giảng cho ông nghe…"
      Chàng nhẹ nhàng đứng bổng lên từ lòng ghế và nhô người trên mặt bàn của Abakumov:
      "Ông có tờ giấy trắng không? Đây rồi."
      Pryanchikov xé một tờ giấy trắng, vớ lấy cây viết màu thật tươi của Abakumov và bắt đầu vẽ vội và vụng những đường cong queo tượng trưng cho những làn sóng âm thanh.
      Abakumov không chút sợ hãi – trong thái độ, cử chỉ và giọng nói của người kỹ sư trẻ tuổi lạ kỳ có một cái gì thành thật, hồn nhiên và như ngây thơ làm cho y chịu đựng cuộc tấn công này. Y nhìn ngây Pryanchikov nhưng không ghi nhận những lời chàng nói.
      "Ông phải biết rằng tiếng nói của con người có rất nhiều hòa âm," Pryanchikov gần như nghẹn lời vì muốn nói ra tất cả những gì chàng cần nói trong một thế gian ngắn nhất, "và sáng kiến căn bản của máy Âm Thính là biến tiếng nói ra những âm thanh khác hẳn rồi lại kết hợp trở thành tiếng nói. Biến hóa cách nào tùy người sử dụng máy. Trời đất, sao ông có thể viết được với cây bút tồi như vầy? Ông biết rõ về tọa độ Cartesie chứ hả? Cái này chú học sinh nào cũng biết mà – và phương pháp Fourier?"
      "Chờ chút," Abakumov cố tự trấn tĩnh để nói. "Chú chỉ cần nói cho tôi biết: Bao giờ thì xong? Bao giờ thì máy dùng được? Bao giờ?"
      "Bao giờ xong? Hừm, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy."
      Giờ đây Pryanchikov không còn ngây ngất vì những hình ảnh chàng vừa nhìn thấy ngoài đường phố nữa, chàng bị tràn ngập bởi niềm yêu dấu công việc chàng đang làm và một lần nữa, chàng không sao có thể ngừng nói – Không trả lời câu hỏi của ba, chàng tiếp:
      "Vấn đề quan trọng bây giờ là nếu mình chịu biến cả giọng nói đi. Trong trường hợp ấy, số đơn vị…"
      "Nhưng ngày nào? Ngày nào, tháng nào? Ngày một tháng ba? Ngày một tháng tư?"
      "Trời đất… ông nói chi vậy? Tháng tư? Không kể đến những việc về Ám Số chưa làm xong, chúng tôi chỉ có thể hoàn thành dàn máy này vào… Coi nào, không thể sớm hơn được," Pryanchikov nắm tay áo Abakumov, kéo mạnh. "Ông để tôi giải thích tất cả cho ông nghe. Ông sẽ hiểu và sẽ đồng ý với chúng tôi rằng việc đó không thể vội mà được…"
      Nhưng Abakumov, mắt nhìn ngay xuống những hình vẽ vằn vèo vô nghĩa với y trên tờ giấy, đã đưa ngón tay ra tìm thấy nút chuông điện cạnh bàn.
      Người sĩ quan mang cấp bậc Trung tá gọn ghẽ hồi nãy lại xuất hiện và mời Pryanchikov đi ra.
      Pryanchikov đi xa bàn với vẻ bối rối hiện rõ trên mặt, miệng chàng hé mở. Chàng thất vọng vì chàng chưa giải thích được gì hết. Và khi đã đi ra được nửa phòng, bỗng dưng chàng nhận biết người đàn ông to lớn ngồi kia là ai. Chàng nhớ lại rằng những người bạn tù của chàng đã dặn chàng phải khiếu nại, phải cố gắng đòi hỏi. Chàng quay phắt lại và nói lớn:
      "Ê, tôi quên chưa nói cho ông biết."
      Nhưng người sĩ quan chặn không cho chàng đi trở lại, đồng thời y đẩy chàng ra cửa. Và Pryanchikov thấy rõ là người đàn ông ngồi ở bàn kia không nghe chàng nói. Trong một khoảnh khắc, tất cả những hành động phạm pháp, tàn ác của bọn cai ngục trở lại với chàng nhưng chàng chỉ có thể còn kêu lớn một câu:
      "Nước sôi, chúng tôi làm việc khuya nhưng không có nước sôi pha trà. Chúng tôi không có trà nóng uống ban đêm."
      "Không có nước sôi?"
      Một người nào đó đứng ở ngoài cửa phòng, dường như là một vị tướng lãnh, nói với Pryanchikov:
      "Được rồi. Để chúng tôi lo."
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #43

       29/7/2011, 10:54

      Đũa thần hóa phép đi
      Bobynin đi vào phòng. Anh cũng bận bộ quần áo màu xanh đậm y hệt bộ quần áo của Pryanchikov, người vừa đi ra. Bobynin là một người đàn ông to và cao, quắc thước, mái tóc hung hung cắt ngắn theo kiểu tóc tù nhân.
      Anh tỏ ra ít chú ý đến cảnh gian phòng và những đồ bày biện, bài trí ở đây như anh đã từng ra vào nơi đây cả trăm lần mỗi ngày. Anh đi thẳng tới trước bàn và đĩnh đạc ngồi xuống ghế không thốt ra nửa lời chào hỏi. Rồi anh rút chiếc khăn tay không được sạch lắm vì ít có dịp được giặt trong túi ra hỉ mũi.
      Abakumov, sau khi thất vọng vì sự nói nhiều nhưng không đi đến đâu của Pryanchikov, tỏ ra yên tâm hơn khi thấy Bobynin điềm tĩnh và có vẻ nghiêm trọng. Y không quát lên với Bobynin “Đứng lên” như y vẫn thường quát với những đám ngồi khi chưa được y cho phép. Nghĩ rằng người tù này không biết y là ai, và gã cũng không đoán ra gã đang ở đâu, y cất giọng gần hiền lành hỏi:
      "Tại sao anh lại ngồi khi chưa được phép?"
      Bobynin nghiêng mặt nhìn vị Tổng trưởng quyền uy, anh vẫn dùng khăn chùi mũi và trả lời bằng một giọng thản nhiên:
      "Có một câu cách ngôn Trung Hoa nói rằng: “Đứng tốt hơn đi, ngồi tốt hơn đứng và tốt hơn cả là nằm”.
      "Anh có biết tôi là ai không?"
      Ngồi thoải mái với hai cánh tay đặt trên thành ghế, bây giờ Bobynin mới nhìn thẳng vào mặt Abakumov, anh chậm chạp đưa ra lời đoán:
      "Ông là ai? Hừ… Tôi thấy ông giống như Thống chế Goering."
      "Giống ai?"
      "Thống chế Goering. Có lần ông ấy đến thăm xưởng chế tạo phi cơ ở gần Halle, nơi tôi làm việc. Bọn tướng lãnh ở đó đều sợ xanh mặt, không tên nào dám đi mạnh, nhưng tôi không thèm cả nhìn xem ông ta ra sao. Ổng đến, đứng nhìn một hồi rồi đi." [1]
      Có một vẻ gì gần giống như nụ cười thấp thoáng trên vành môi Abakumov, nhưng y vội nghiêm mặt lại vì ngụ ý hỗn hào trong câu nói của tên tù. Y chớp mắt và hỏi, giọng bực dọc:
      "Anh không thấy có sự khác biệt ư?"
      "Khác biệt giữa ông và hắn? Hay khác biệt giữa ông và tôi?"
      Giọng nói của Bobynin có những âm thanh lạnh, cứng như thép.
      "Giữa tôi và ông, tôi thấy sự khác biệt rõ lắm: Ông cần tôi, còn tôi không cần ông."
      Abakumov cũng có giọng nói có thể gầm lên như sấm sét, và y biết cách lợi dụng nó để đàn áp người khác. Nhưng lúc này y thấy y có gầm lên cũng vô ích. Y hiểu rằng người tù này là một gã khó chế ngự được.
      Vì vậy, y chỉ cảnh cáo:
      "Anh tù, nghe đây. Đừng thấy rằng tôi dễ dãi mà anh có thể…"
      Bobynin vẫn thản nhiên:
      "Công dân Tổng trưởng, nếu ông làm dữ với tôi, tôi sẽ không nói gì với ông nữa. Ông chỉ có thể quát tháo, chửi mắng, đe dọa bọn đại tá với tướng lãnh quân hầu của ông. Họ có nhiều thứ mà họ sợ mất trong đời."
      "Tôi có thể bắt anh phải nói."
      "Ông lầm đấy, Công dân Tổng trưởng."
      Đôi mắt cương cường của Bobynin sáng lên ánh lửa thù hận:
      "Ông không làm gì được tôi hết vì tôi chẳng còn gì hết, ông hiểu không? Ông không thể làm hại được vợ con tôi vì một trái bom đã làm vợ con tôi tiêu tan lâu rồi. Ông cũng không thể hành hạ được cha mẹ tôi vì cha mẹ tôi đã chết. Tất cả những gì tôi có bây giờ chỉ là cái khăn tay dơ này, bộ quần áo cũng này và cái quần cụt rách."
      Như để chứng minh lời nói, Bobynin vạch áo để trần ngực:
      "Tất cả những thứ này đều do chính phủ phát. Ông đã tước đoạt tự do của tôi lâu rồi, và ông không có khả năng trả lại tự do cho tôi vì chính ông, ông cũng không có tự do. Tôi đã bốn mươi hai tuổi và ông đã giáng cho tôi cái án tù hai mươi lăm năm. Tôi đã từng là tù khổ sai, từng sống với những con số thay tên trên ngực áo, từng bị còng tay, từng sống giữa bầy chó dữ, từng chết dở sống dở trong những trại giam tàn ác nhất của bọn ông. Ông còn gì nữa để mà dọa tôi? Ông chẳng còn tước đoạt ở tôi thêm cái gì nữa. Ông có thể cấm tôi hành nghề kỹ sư? Cũng được. Nhưng cấm tôi thì ông có hại nhiều hơn là tôi. Tôi hút thuốc."
      Abakumov mở nắp hộp đựng những điếu thuốc đặc biệt mang nhãn hiệu Troika ra mời:
      "Đây, hút thuốc này."
      "Cám ơn. Tôi không thích đổi thuốc. Thuốc của ông làm tôi ho."
      Bobynin lấy ra một điếu thuốc Belommor tự hộp đựng thuốc do anh làm lấy. Anh nói tiếp:
      "Ông nên hiểu điều này, và ông nên nói lại điều này với những người trong bọn ông rằng các ông chỉ mạnh khi nào các ông không tước đoạt của người khác hết tất cả mọi thứ. Bởi vì khi một người đã bị các ông lấy mất hết tất cả, người đó sẽ không còn ngán sợ các ông nữa. Người đó lại trở thành tự do."
      Bobynin lặng im, anh chú tâm vào điếu thuốc. Anh cảm thấy thú vị đã làm được cho Tổng trưởng Abakumov hoang mang, anh khoan khoái ngồi trong chiếc ghế da quá êm này. Anh chỉ hơi hối có một điều là với mục đích tỏ ra bất cần, anh đã từ chối điếu thuốc thơm hiếm có kia.
      Tổng trưởng Abakumov kiểm soát trên giấy:
      "Kỹ sư Bobynin, anh là kỹ sư Trưởng toán làm việc ở Phòng Số Bảy?"
      "Phải."
      "Tôi yêu cầu anh trả lời thật rõ rệt: Bao giờ giàn máy điện thoại đặc biệt được hoàn thành? Bao giờ thì máy dùng được?"
      Bobynin ngước đôi lông mày đen rậm lên:
      "Chuyện này hơi lạ đó. Sao ông không hỏi Đại tá Yakanov mà lại hỏi tôi?"
      "Tôi muốn hỏi chính các anh. Đến tháng hai này máy có thể dùng được chưa?"
      "Tháng hai? Ông có giỡn chơi không đó? Ông muốn chúng tôi chế tạo ra một thứ có thể dùng được hay là làm bậy cho xong rồi muốn ra sao thì ra? Coi nào – sớm nhất cũng phải là nửa năm nữa. Còn muốn cho máy thật hoàn hảo thì phải một năm."
      Abakumov như người bị búa tạ nện xuống đầu. Y điếng hồn nhớ lại bộ ria mép rung động, giận dữ của Lãnh tụ mỗi khi gặp điều gì trái ý hoặc phải chờ đợi, và y nhớ lại những lời y đã long trọng hứa với Lãnh tụ, những lời hứa căn cứ trên lời hứa của bọn Oskolupov, Yakanov. Y có cải cảm giác rụng rời chân tay của kẻ đi đến bệnh viện xin thuốc cảm cúm để hốt nhiên được biết mình bị ung thư cuống họng.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #44

       29/7/2011, 10:55

      Và y cố gắng gằn giọng:
      "Bobynin, tôi muốn anh suy nghĩ kỹ trước khi nói: anh có thể hoàn thành cái máy đó nhanh hơn được không? Nếu được, anh cho tôi biết: Cần phải làm những gì, cần phải có những gì?"
      "Nhanh hơn? Không thể được."
      "Nhưng tại sao? Vì nguyên nhân nào? Kẻ nào có lỗi? Nói cho tôi biết, đừng có sợ gì cả. Cho tôi biết kẻ nào có lỗi, bất cứ kẻ đó ở cấp bậc nào, tôi cũng tống nó xuống làm lính trơn."
      Bobynin ngồi vắt chân, dựa lưng và ngửa mặt nhìn lên trần nhà. Abakumov nói như rít lên qua hàm răng nghiến lại:
      "Dự án này đã kéo dài hơn hai năm mấy tháng rồi còn gì? Hai năm rưỡi trong lúc các anh chỉ được quyền làm trong thời hạn một năm."
      Cơn giận trong Bobynin nổ ra:
      "Ông nói cái gì? Thời hạn là cái gì? Ai lại ngu si ra hạn cho một dự án khoa học bao giờ? Ông quan niệm khoa học như thế nào? Khoa học đâu có phải là cây đũa thần của bà tiên để ông có thể ra lệnh: Xây cho ta tòa lâu đài trước sáng mai và sáng mai ngủ dậy, ông thấy tòa lâu đài mới tinh hiện ra trước mắt? Ông phải biết là vấn đề đã được đặt ra sai ngay từ đầu. Ai có thể biết trước được có bao nhiêu hiện tượng bất ngờ xảy đến trong một dự án khoa học. Thời hạn! Ông tưởng chỉ cần ra thời hạn phải làm xong đã giải quyết được tất cả hay sao? Ông có biết rằng ngoài việc ra lệnh ông còn cần phải có những người được ăn uống đầy đủ, những người thoải mái về tinh thần, những người tự do để làm công việc ấy? Không ai có thể làm việc được trong không khí nghi ngờ vô lý ở đấy. Ông đâu có biết chúng tôi chỉ có một cái máy tiện cổ lỗ sĩ để dùng và chúng tôi phải khiêng cái máy hạng bét đó hết chỗ này sang chỗ khác. Vì máy quá cũ nên nó bị hư, cần trục gãy phải hàn lại mất ba mươi ruble. Cái máy tiện đó sống đã một trăm hai mươi năm trời rồi. Nó nhão hết mọi bộ phận. Vậy mà vì nó hư, anh Thiếu tá Shikin ngu đần, sĩ quan an ninh ở đó, bắt tất cả chúng tôi tới để thẩm vấn liền trong hai tuần lễ. Hắn muốn tìm cho ra kẻ phá hoại để gán thêm án tù vì tội phá hoại. Tên đó là sĩ quan an ninh trong Viện, một gã ăn hại. Lại còn một tên nữa cũng là sĩ quan an ninh. Tên Shikin phụ trách an ninh trong các phòng thí nghiệm, tên kia giữ an ninh trong nhà giam. Gã làm cho bọn tôi điên đầu vì những báo cáo ti tiện của gã. Mà các ông làm cái gì phải có tới hai tên sĩ quan giữ an ninh ở đấy chứ? Ai cũng biết là chúng tôi chế tạo máy điện thoại cho Stalin, và chính Stalin đích thân ra lệnh làm máy này. Vậy mà với một công tác như thế các ông cũng không cung cấp cho chúng tôi đủ vật liệu cần thiết. Khi chúng tôi cần bóng đèn thì không có hoặc là có nhưng không đúng thứ chúng tôi cần dùng, cả đến những bàn dao-động-đồ cũng không đủ. Thật là xấu hổ. Vậy mà ông còn hỏi rằng ai có lỗi. Ngoài ra, các ông đâu có nghĩ gì tới những người làm việc cho các ông ở đó. Họ đều làm việc mỗi ngày mười hai tiếng có ngày tới mười sáu tiếng, nhưng các ông chỉ cho những kỹ sư trưởng toán ăn thịt còn những người khác ăn xương. Tại sao các ông không cho họ được gặp thân nhân họ? Đáng lẽ mỗi tháng họ được gặp vợ con họ một lần thì các ông chỉ cho họ mỗi năm được gặp một lần. Việc đó giúp tinh thần họ lên cao để họ có thể làm việc cho các ông hữu hiệu hơn hay sao? Hay là các ông không có đủ xe Maria đen để đưa tù đi gặp vợ con. Hay là thiếu tiền trả cho bọn lính canh để đi làm những ngày nghỉ? Trước kia trong ngày chủ nhật chúng tôi được đi lại suốt ngày ở ngoài sân vườn, bây giờ cấm. Tại sao lại cấm? Để chúng tôi làm việc nhiều hơn ư? Các ông phải biết chúng tôi làm cho các ông những công việc gì và chúng tôi cần có những gì để làm công việc ấy chứ? Nhốt người ta suốt đêm trong phòng kín đâu có phải là công việc sẽ làm nhanh hơn. Mà tôi có nói với ông cũng vô ích. Như ông chẳng hạn – tại sao ông lại gọi tôi tới đây vào lúc nửa đêm như thế này. Bộ ban ngày không có đủ thì giờ hay sao? Tôi còn có việc phải đi làm ngày mai. Tôi cần ngủ."
      Bobynin đứng thẳng người, giận dữ, to lớn.
      Abakumov thở phì phò, nhấn mạnh nút chuông điện.
      Lúc đó đã mười một giờ hai phút. Trong một tiếng đồng hồ nữa, vào lúc hai giờ ba mươi sáng, Abakumov phải tới báo cáo với Stalin trong biệt xá ở Kuntsevo.
      Nếu tên kỹ sư này nói đúng, bằng cách nào y có thể thoát được tai họa này?
      Stalin không bao giờ tha thứ.
      Sau khi Bobynin đi khỏi, Abakumov nhớ lại bọ tam-đầu-chế dối trá Sevastyanov, Oskolupov và Yakanov, cơn giận như một tấm màn đen phủ xuống mắt y.
      Abakumov cho gọi ba tên dối trá đó trở lại.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #45

       29/7/2011, 10:55

      Sinh nhật của người hùng
      Căn phòng nhỏ hẹp và trần phong thấp. Phòng có hai cửa ra vào nhưng không có cửa sổ, tuy vậy không khí trong phòng vẫn mát và dễ chịu. Một kỹ sư đặc biệt thường trực chịu trách nhiệm giữ cho không khí trong phòng này lưu thông và trong sạch. Một phần lớn của căn phòng bị choán vì chiếc ghế dài có thành tựa bọc da nâu trên có những chiếc gối dựa bọc vải hoa. Trên tường, hai bóng đèn điện hồng nằm trong lồng kiến mờ soi sáng căn phòng.
      Trên chiếc ghế dài có một người đàn ông nửa nằm nửa ngồi. Người đàn ông này là người mà khuôn mặt, dáng người đã được điêu khắc trên đá, vẽ bằng dầu, bằng màu nước, bằng phấn, bằng sơn, bằng bột, bằng chì, bằng than với đủ thứ màu sắc, được đắp bằng những viên đá, viên sỏi, bằng vỏ sò vỏ ốc, bằng gạo, bằng những hạt đậu nành, bằng ngói, được chạm trổ trên ngà, trên gỗ quý, trên sừng, được đan bằng sợi, trồng bằng cỏ, được hợp lại bằng những đoàn phi cơ bay trên trời, được chụp hình, được quay phim. Trong khoảng ba tỷ năm dài của trái đất này chưa có người nao được người đời tạo hình nhiều đến như người đàn ông này.
      Y nằm đó hai chân để trên cao, hai chân y đi đôi giày da cao cổ, kiểu giày của người Caucase, làn da mềm như giày chỉ là đôi vớ dày. Y bận chiếc áo làm việc có bốn túi lớn, hai túi ở ngực, hai túi bên dưới – chiếc áo đã cũ, đã được mặc nhiều lần, một trong những chiếc áo bốn túi được y mặc kể từ thời nội chiến và từng được y thay bằng bộ quân phục Thống chế kể từ sau trận Stalingrad.
      Tên người đàn ông này được đăng trên báo chí, được cả ngàn xướng-ngôn-viên của cả ngàn đài phát thanh trên thế giới nhắc đến bằng hàng trăm thứ tiếng, được hô lớn bởi những diễn giả ở đầu và cuối những bài diễn văn, được hát bởi những giọng ca trong trẻo của những em nhi đồng, được thốt lên từ miệng những vị Giám mục. Tên người đàn ông này thấp thoáng trên môi những tù binh hấp hối, giữa những hàm răng tê cóng của những người tù rạc trong những trại tập trung. Tên người đàn ông này cũng được đặt cho vô số những thị trấn, những công viên, đường phố và đại lộ, những lâu đài, những đại học đường, trường học, bệnh viện, núi, sông, xưởng máy, hầm mỏ, nông trường, công xã, chiến hạm, tàu phá băng sơn, tàu đánh cá, ấu trĩ viện và được một nhóm ký giả báo chí Mạc Tư Khoa đề nghị đặt cho sông Volga và dùng để gọi mặt trăng.
      Y chỉ là một người đàn ông hơi già với một cái cằm chẻ đôi hơi xệ – trong những bức hình chụp y người ta không bao giờ thấy cái cằm xệ này – với cái miệng đượm mùi thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ, những ngón tay y mập và có dầu thường để lại những vết như vết mỡ trên những trang giấy mỏng. Hôm qua và hôm nay y không được dễ chịu và khoẻ lắm: Ngay cả trong bầu không khí ấm áp của căn phòng y vẫn cảm thấy lành lạnh ở lưng và hai vai, trên vai y choàng chiếc khăn lông lạc đà màu nâu.
      Y không bận rộn vì bất cứ chuyện gì. Y ngồi đó lật giở từng tờ một quyển sách nhỏ bìa da nâu với vẻ hài lòng hiện trên nét mặt. Y nhìn với một vẻ chú ý lên những tấm hình in trong quyển sách và thỉnh thoảng, y đọc vài đoạn trong sách mặc dù y đã dần thuộc lòng trọn quyển sách này. Và y lần giở từng trang. Quyển sách này càng thêm tiện lợi vì khuôn khổ của nó nhỏ bỏ vừa vào túi áo ngoài của mọi người, nó có thể đi theo người ta bất cứ đâu trong suốt cả một đời. Nó gồm hai trăm năm mươi trang và được in bằng chữ khá lớn và rõ để cho những người đã già mắt kém hoặc những người ít học cũng có thể đọc được dễ dàng. Nhan đề của nó được in trên bìa bằng chữ vàng: Tiểu sử Iosif Vissarionovich Stalin.
      Những dòng chữ rất thường, dễ hiểu và lương thiện trong quyển sách này tất nhiên là phải có tác động đến trái tim người đọc. Tài ba về chiến thuật – chiến lược thần kỳ của Stalin, sự nhìn xa thấy rộng của Stalin…tất cả đều được ghi lại trong quyển sách này. Kể từ năm 1918, y đã trở thành một phụ tá đắc lực của Lênin. (Đúng, đúng, chuyện này đúng). Người lãnh đạo cuộc cách mạng bị bối rối vì tình trạng lộn xộn tưởng như không sao giải quyết nổi, chính là nhờ Stalin mà cách mạng đã toàn thắng. (Đúng, thật đúng.) Chúng ta may mắn vô cùng nên mới có được một vị lãnh tụ tài ba và giàu kinh nghiệm – Đại Lãnh Tụ Stalin – dẫn dắt trong những ngày khó khăn, bi thảm đó. (Đúng vậy, dân tộc này quả là may mắn.) Tất cả chúng ta đều có dịp thấy rõ sự sáng suốt vô biên của người, tinh thần quang minh tuyệt vời của người. (Đúng vậy, không nên khiêm tốn giả dối, ta phải nhận đó là sự thực.) Tình yêu thương đồng bào của người. Lòng nhân ái của người. Khả năng thông cảm sâu xa của người. Bản tính khiêm tốn kỳ diệu của người. (Khiêm tốn –phải đấy, mình khiêm tốn thật.)
      Tốt. Và họ nói sách này bán chạy lắm. Ấn bản thứ hai này in năm triệu cuốn. Nhưng với một nước rộng như thế này thì con số đó vẫn còn là quá nhỏ. Ấn bản thứ ba phải in ít nhất là mười triệu cuốn, hoặc hai mươi triệu cuốn. Sách phải bán thẳng cho các xưởng may, trường học, nông xã.
      Y cảm thấy hơi lợm giọng. Đặt quyển sách xuống, y bóc vỏ một trái cam tươi trên mặt bàn tròn và cắn vào trái cam. Nếu y mút chất nước của trái cam, y sẽ hết lợm giọng và miệng y sẽ dễ chịu vì chất nước chua chua ngọt ngọt của trái cam để lại.
      Y nhận thấy, nhưng y sợ không dám nhìn nhận, là sức khoẻ của y mỗi tháng một kém đi. Y có những phút quên lãng. Y khổ sở vì chứng lợm giọng buồn nôn. Y không đau đớn gì rõ ràng cả nhưng một sự mệt mỏi khó chịu thường giữ y ngồi dính xuống ghế nhiều giờ đồng hồ trong một ngày. Ngay cả việc ngủ cũng không làm cho y dễ chịu. Sau giấc ngủ, y tỉnh dậy và vẫn bải hoải, rã rượi, bần thần như trước khi ngủ, đầu y vẫn nặng và y không còn muốn đi lại, làm việc.
      Ở miền Caucase, một người đàn ông bảy mươi tuổi vẫn còn là trẻ, vẫn còn leo núi, cưỡi trên lưng ngựa, trên bụng đàn bà. Và xưa kia, y mạnh khoẻ biết chừng nào. Y vẫn tin chắc là y sẽ sống đến chín mươi tuổi. Có chuyện gì đã xảy ra? Vì sao y lại thay đổi, lại yếu đi đến thế này? Trong khoảng những năm gần đây Stalin không còn có thể hưởng thụ cái khoái lạc lớn nhất trong đời y nữa - cái khoái lạc đó là việc ăn uống. Nước cam tươi làm cho lưỡi y rát, caviar dính vào kẻ răng y, và y ăn với một vẻ lãnh đạm không thấy gì là ngon cả những món ăn nhiều ớt, nhiều tiêu của miền Georgia. Y cũng không còn khoái uống rượu như xưa nữa – mỗi lần uống rượu y lại nhức đầu. Và chỉ cần nghĩ đến đàn bà thôi cũng đã đủ làm cho y kinh tởm.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #46

       29/7/2011, 10:55

      Vì đã quyết định sẽ sống đến năm chín mươi tuổi, Stalin buồn rầu nghĩ rằng những năm sắp tới sẽ không đem lại cho y được một nỗi vui riêng nào, y sẽ phải chịu đựng hai mươi năm trời nữa vì hạnh phúc của nhân loại.
      Một ông bác sĩ đã cảnh cáo y như thế – (và ông này đã bị bắn chết chính vì thế) – Những ông nghe run rẩy trong bàn tay của những nhân vật nổi tiếng nhất trong giới y khoa ở Mạc Tư Khoa. Những ông này không bao giờ tiêm thuốc cho Stalin. (Chính Stalin đã ra lệnh không được dùng thuốc chích). Họ chỉ dùng khoa chạy điện và khuyến cáo y dùng nhiều trái cây hơn.
      Ba ngày trước đây là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ bảy mươi rực rỡ của y. Họ đã thực hiện lễ kỷ niệm nay từng giai đoạn: Trong đêm hai mươi Traicho Kostov đã bi đánh đến chết, chỉ sau khi ánh mắt của tên hèn hạ ấy đã mờ đi, lạc thần những cuộc liên hoan mới thực sự bắt đầu. Trong ngày hai mươi mốt có một cuộc lễ lớn được tổ chức ở Đại Hí viện Bolshoi, Mao Tse-Tung và Ibarruri cùng nhiều đồng chí khác đọc diễn văn mừng thọ ở đây. Và sau đó là một bữa tiệc lớn, rồi tiếp ngay sau đó là một bữa tiệc nhỏ. Họ uống những chai rượu quý được cất trong hầm rượu Y Pha Nho để dành vào những dịp đặc biệt này. Y uống rượu với sự thận trọng, vừa uống vừa để ý quan sát ngầm những khuôn mặt đỏ khê quanh y. Sau nữa, y và Lavrenty uống rượu Kathetinskoye và hát những bài ca miền Goergia. Trong ngày hai mươi hai có một cuộc tiếp tân ngoại giao đoàn vĩ đại. Trong ngày hai mươi ba, y ngồi coi hai cuốn phim Trận chiến Stalingrad của Đạo diễn Virta (phần hai) và phim Năm 1919 khó quên của Đạo diễn Visnhevsky. Cả hai phim này đều có hình ảnh y do hai diễn viên điện ảnh đóng.
      Mặc dù việc ngồi coi phim làm cho y mệt mỏi y vẫn thích hai cuốn phim này. (Cả hai đạo diễn đều được lãnh giải Stalin.) Hiện giờ vai trò của y trong cuộc nội chiến cũng như trong trận đại chiến Thế giới thứ hai, trận chiến tranh thần thánh bảo vệ quy hoạch, đã được diễn tả đúng và đầy đủ. Người ta đã thấy rõ ngay từ xưa y đã là một nhân vật vĩ đại đến là chừng nào. Y nhớ rằng y từng nhiều lần cảnh cáo và sửa lỗi cho Lênin. Lênin quá cả tin và đôi khi khờ khạo. Và đạo diễn Visnhevsky đã làm đúng khi để cho y nói trong phim: “Bất cứ người công nhân nào cũng có quyền nói lên ý kiến của mình. Có ngày chúng ta sẽ ghi điều ấy vào hiến pháp”. Việc đó có ý nghĩa gì? Ý nghĩa của việc đó là trong khi ở Yudenich để chỉ huy cuộc bảo vệ Petrograd, Stalin đã nghĩ đến việc soạn thảo một hiến pháp dân chủ trong tương lai. Thời đó tình trạng xã hội được gọi là “vô sản chuyên chế” – nhưng đâu có quan hệ gì, chỉ biết là chế độ đó đúng, chế độ đó mạnh.
      Và trong cuốn phim Trận chiến Stalingrad của Virta, đoạn phim ban đêm Stalin tâm sự với một người bạn là đoạn phim tốt, thành công. Thực ra, suốt đời Stalin, y chưa từng bao giờ có một người bạn nào lý tưởng như vậy cả, bởi vì loài người xảo trá và không bao giờ thành thực, nhưng khi ngồi coi đoạn phim cảm động đó chiếu trên màn ảnh, Stalin vẫn cảm thấy nghẹn ngào trong cổ họng và nước mắt ứa ra trên mi – (tâm hồn y còn là tâm hồn nghệ sĩ nữa) – và y thèm khát được có một người bạn thẳng thắn, không ích kỷ, một người bạn mà y có thể nói hết tất cả những gì y nghĩ ngợi trong những đêm dài.
      Nhưng dù không có cũng không sao. Quần chúng bình dân yêu mến Lãnh tụ, hiểu y và yêu y, vậy là đủ rồi – và đó là tình trạng có thật. Y nhìn thấy sự yêu mến và thông cảm ấy hiển hiện trên những trang báo, trên phim ảnh, qua những tặng phẩm sinh nhật. Ngày sinh nhật của y đã trở thành một ngày quốc khánh, và đó là một điều làm cho y ấm lòng. Không biết bao nhiêu là điện văn chúc thọ được gửi đến. Từ những viện, những cơ sở, những tổ chức, những xưởng máy và những tư nhân. Nhật báo Pravda đã xin phép được đăng tải mỗi ngày hai cột báo những điện văn này. Họ có thể đăng hết năm này qua năm khác mà vẫn không bao giờ hết được điện văn. Được lắm, đó cũng là một ý kiến hay.
      Và những tặng phẩm chất đầy mười gian phòng trong Viện Bảo tồn Cách mạng. Để khỏi ngăn cản những công dân Mạc Tư Khoa đến đó chiêm ngưỡng những tặng phẩm ban ngày, Stalin đã tới đó coi vào ban đêm. Đó là tác phẩm, chế tạo phẩm của cả ngàn tay thợ khéo, đó là những tặng phẩm đẹp nhất thế giới, những tặng phẩm hằng hà sa số được đặt, bày, treo, dựng trước mắt y. Nhưng ở đó y cũng cảm thấy lãnh đạm, chán chường. Những tặng phẩm này có ích gì cho y? Y coi thường tất cả và chán nản tất cả. Khung cảnh Viện Bảo tồn này gợi trong ký ức y một kỷ niệm khó chịu nào đó, một khó chịu mơ hồ thường ám ảnh y ít lâu nay. Y không sao biết rõ được nguyên nhân nó, y không nắm được nó, y chỉ thấy nó mơ hồ ẩn hiện và làm cho y khó chịu. Y đi qua ba gian phòng đầy tặng phẩm nhưng không chọn qua một món nào hết. Rồi y đứng lại trước một giàn máy Tivi lớn hơn hàng chữ khắc “Nhân viên Cheka kính tặng Đồng chí Stalin vĩ đại”. [2]
      (Giàn Tivi này được chế tạo ở Viện Mavrino – đây là giàn Tivi duy nhất, lớn nhất được chế tạo ở Liên bang Xô Viết.)
      Rồi y quay gót và đi ra.
      Những ngày liên hoan trôi qua như thế. Y chẳng cảm thấy có gì là vui, là phấn khích hết.
      Có một cảm giác gì đó nặng nề trong lồng ngực làm cho Stalin lo âu và thắc mắc, cảm giác đó có từ lúc y đứng trong Bảo tồn viện, có một cái gì trong đó đã gây cho y cái cảm giác khó chịu ấy nhưng y vẫn không biết rõ vì cái gì.
      Quần chúng muốn y, điều đó đúng, đúng lắm nhưng quần chúng không biết nhìn xa. Làm cách nào sửa được khuyết điểm ấy? Chế độ cộng sản sẽ được thực hiện nhanh chóng và hoàn hảo biết chừng nào nếu không có những tên công chức vô hồn, nếu không có những tên cán bộ cao cấp ngu dốt, nếu không có những sơ hở, yếu kém trong công tác giáo dục và hướng dẫn quần chúng. Ngay cả bọn đảng viên cũng lầm lạc và xao lãng nhiệm vụ lịch sử của chúng. Lại còn những chậm trễ trong những kế hoạch xây dựng, những chậm trễ trong kế hoạch sản xuất, sự thiếu thốn những hóa phẩm tốt, những chương trình sai lầm, sự lãnh đạm của tất cả trước những cố gắng áp dụng kỹ thuật mới và dụng cụ mới, sự từ chối của bọn trẻ lười biếng không chịu xung phong đi công tác ở những miền xa để mở rộng biên cương, năng suất nông phẩm tụt dốc, tình trạng hoang phí của bọn cán bộ thuế, tình trạng trộm cắp trong những kho chứa, tình trạng tham nhũng, biển thủ, chiếm công vi tư của bọn ủy viên, bọn tù nhân phá hoại ngầm, rồi lại còn bọn công an chủ trương tự do, bọn hành nghề chợ đen hỗn xược, bọn đàn bà nội trợ tham lam, đòi hỏi, bọn trẻ con hư vì được quá nuông chiều, bọn chuyên bàn tán nhảm trên xe buýt, bọn văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác, bọn “phê bình, chỉ trích” láo lếu, bọn làm điện ảnh phá phách không còn biết đến kỷ luật là gì.
      Thật vậy, quần chúng có quá nhiều lỗi lầm cần phải sửa đổi.
      Như trong năm 1941 chẳng hạn, cái gì đã làm cho họ rút lui? Họ đã được lệnh ở lại đó cho tới chết. Tại sao họ không chịu làm thế? Năm đó, ai đã rút lui, ai đã bỏ chạy, nếu không phải là quần chúng?
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #47

       29/7/2011, 10:55

      Nhưng nhớ lại năm 1941, Stalin cũng không sao tránh thoát được việc nhớ lại những yếu đuối và lầm lẫn của chính y – y đã vội vã đi khỏi Mạc Tư Khoa trong tháng mười năm ấy, sự bỏ đi của y không cần thiết. Tất nhiên đó không phải là y bỏ trốn, bởi vì trước khi đi, Stalin đã để lại nhiều người có trách vụ. Y đã ra lệnh cho những người phải ở lại chiến đấu bảo vệ thủ đô đến giọt máu cuối cùng, nhưng hỡi ơi, chính những đồng chí được tin cẩn này lại yếu tinh thần, trước sức tấn công của quân Đức Quốc Xã, họ bỏ chạy và sau cùng Stalin lại phải trở về và tự lực bảo vệ thủ đô.
      Y đã cho đi tù tất cả những kẻ nào không may được chứng kiến và nhớ lại cơn hoảng loạn trong ngày 16 tháng mười năm đó. Nhưng y cũng tự trừng phạt chính y –y đã đứng duyệt cuộc diễn binh trong tháng mười ấy. Khoảnh khắc thời gian đó cũng giống như y bị ngã xuống một hố băng đá ở Turukhansk, nơi y bị lưu đày. Ở Turukhansk thời đó chỉ có băng giá và tuyệt vọng, nhưng từ băng giá tuyệt vọng đã trồi lên sức mạnh. Đó không phải là một sự kiện đáng cười – một cuộc diễn binh trong khi quân địch đã đến sát chân thành.
      Nhưng muốn trở thành nhà Lãnh tụ vĩ đại nhất của muôn đời, nhà Lãnh tụ vĩ đại nhất của những nhà Lãnh tụ vĩ đại, người ta phải hy sinh, chịu đựng nhiều. Lẽ tự nhiên rồi.
      Mệt mỏi vì bất động, vô tình Stalin để cho tâm trí y bị tràn ngập bởi những tư tưởng hắc ám nặng nề. Y không chú tâm đến bất cứ vấn đề gì rõ rệt trong lúc này. Y nhắm mắt lại và nằm đó trong khi những mẩu ký ức rời rạc theo nhau trở về trong óc y. Không biết vì sao mỗi khi y hồi tưởng, y không nhớ được những kỷ niệm tốt đẹp, êm đềm, chỉ có những kỷ niệm xấu, khó chịu hiện ra. Nếu y nhớ lại những cảnh vật miền Gori, nơi y ra đời, những ngọn đồi cỏ xanh ở đó không hiện ra, những dòng sông Medzhuda, Liakhva nước trong cũng không thấy hiện ra. Y chỉ nhớ lại toàn những gì đáng thù ghét ở đó, những gì đã ngăn cản không cho y trở lại thăm nơi đó, dù chỉ là thăm trong một tiếng đồng hồ ngắn ngủi, nơi y đã ra đời, đã sống những ngày thơ ấu. Không một lần nào y trở về đó để thăm lại mái nhà xưa. Nếu y nhớ lại năm 1917, y chỉ nhớ có sự kiện Lênin từ ngoại quốc trở về với mớ chủ nghĩa chủ quan và sự kiện Lênin đảo lộn tất cả những thành quả gặt hái được từ trước, và nhớ sự kiện thiên hạ đã cười ồ chế nhạo, khinh khi ra sao khi Stalin đề nghị thành lập một đảng hợp pháp và chung sống hòa bình với chính phủ lâm thời. Họ đã cười nhạo y hơn một lần – nhưng tại sao họ lại cứ trút những việc khó khăn, nguy hiểm, tối tăm cho y làm? Họ cười y nhưng cũng chính y chứ không phải người nào khác, trong ngày mùng 6 tháng bảy năm ấy được họ sai đi từ Lâu đài Kshesinskaya đến đồn Petropavlovsk để thuyết phục đám thủy thủ ở đây trao đồn này lại cho Kerensky và rút lui về Kronstadt đám thủy thủ ném đá đuổi về. Người ta phải biết cách nói chuyện với những người dân Nga. Y nhớ lại năm 1920 và lập tức hình ảnh Tukhachevsky hiện ra khi gã, với đôi mắt long lên, với vành môi nhăn nhúm, tố cáo lớn tiếng rằng chính là lỗi ở Stalin nên mới không chiếm được Warsaw. Gã ngu dại ấy chết vì lời tố cáo bậy bạ ấy.
      Trong suốt đời y dường như không có qua một chuyện gì êm đẹp. Đời y không được êm đẹp bởi vì luôn luôn bị người khác can thiệp. Và khi kẻ này bị thanh toán đi, lại có những kẻ khác hiện ra. Cứ thế và cứ thế người ta quấy rầy y mãi không thôi.
      Y nghe tiếng gõ cửa. Những tiếng này không hẳn là tiếng gõ cửa, chúng như tiếng cào nhẹ của một con chó bên ngoài cánh cửa gỗ dày.
      Stalin xoay một nút điện bên tay ghế, đó là nút điện mở khóa cửa từ xa. Khóa cửa bật ra với một tiếng “cách” khẽ và cánh cửa mở hé. Cửa này không có màn che vì Stalin không thích quanh y có màn cửa, rèm che giường, bất cứ món gì người khác có thể ẩn nấp được. Cánh cửa hé mở đủ để cho một con chó len vào nhưng thay vì con chó, cái đầu hói nhẵn bóng của Poskrebychev rồi bộ mặt lúc nào cũng có vẻ trung thành lương thiện của gã hiện ra.
      Chú ý đến tình trạng sức khoẻ đêm nay của Lãnh tụ, Poskrebychev thấy Stalin nằm dài trên ghế với chiếc khăn lông lạc đà đắp trên vai, nhưng gã không hỏi thăm đêm nay Lãnh tụ có mạnh khoẻ hay không – sức khoẻ Stalin bao giờ cũng được coi là hoàn hảo – gã chỉ nói nhỏ đủ nghe:
      "Yos Sarionich Abakumov sẽ có mặt vào lúc hai giờ rưỡi. Ông có tiếp hắn không? Có thể cho hắn về?"
      Iosif Vissarionovich mở nút túi áo ngực rút ra chiếc đồng hồ – (cũng giống như những người sống theo kiểu cách cũ, y không chịu nổi loại đồng hồ đeo cổ tay).
      Chưa đến hai giờ sáng.
      Y không muốn thay y phục và rời căn phòng này để vào văn phòng. Nhưng y cũng không thể để cho kỷ luật bị lỏng lẻo. Nếu y lỏng tay cương một chút, chỉ cần một chút thôi, bọn họ sẽ biết ngay tức khắc.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #48

       29/7/2011, 10:55

      Stalin trả lời với vẻ mệt mỏi và đôi mắt chớp luôn mấy cái:
      "Để coi. Ta chưa biết."
      "Dạ. Vậy thì cứ để cho hắn tới, cho hắn chờ."
      Poskrebychev nói và gật đầu liền ba cái. (Gã biết rằng càng tỏ ra con nít và khờ khạo chừng nào địa vị của gã càng vững chắc chừng ấy). Rồi nét mặt gã nghiêm lại, gã chú ý nhìn Lãnh tụ:
      "Xin ông cho lệnh về đêm nay?"
      Stalin nói dưới chòm ria mép:
      "Sasha, đi đi. Để ta yên."
      Poskrebychev gật đầu thêm một lần nữa và lùi ra, khép chặt cánh cửa lại.
      Iosif Vissarionovich nhấn nút điện khóa cửa lại và kéo chặt chiếc khăn đắp lên vai, xoay mình nằm nghiêng qua phía bên kia.
      Y nhìn thấy trên mặt chiếc bàn nhỏ ở đầu ghế có một quyển sách nhỏ, in trên giấy báo thường, bìa màu đen và đỏ.
      Đột nhiên y nhận ra cái gì đã làm cho y khó chịu, cái gì đã đè nặng tim y, đã cháy âm ỉ trong ngực y và làm cho lễ sinh nhật của y mất hứng thú: Cái đó là một người, một người đã can thiệp bậy vào đời y mà y vẫn chưa thanh toán được, người đó là Tito. Tito!
      Tại sao chuyện này lại có thể xảy ra được? Sao y lại có thể lầm lẫn đến như thế về con bọ cạp đó? Những năm 1936, 1937 là những năm vinh quang rực rỡ nhất trong đời y. Trong hai năm đó y đã trừ khử được những kẻ khó trừ khử nhất, không biết bao nhiêu đầu người đã rơi trong hai năm ấy nhưng vậy mà y đã để cho Tito lọt qua kẽ tay y.
      Với một tiếng gừ, Stalin buông hai chân xuống sàn. Y ngồi thẳng lên và giơ tay lên vuốt nhẹ mái tóc hung hung, xám xám, mái tóc đã có một miếng hói thấy rõ. Những sự bất-như-ý, những bất mãn chất chứa trong dĩ vãng ào ào trở lại làm cho y choáng váng. Như một người hùng trong huyền thoại, suốt đời Stalin đã bận rộn với việc chặt đầu con quái long, nhưng vừa chặt xong đầu này con vật lại mọc ngay đầu khác. Trong những năm qua y đã chặt đầu kẻ thù chất lên thành núi, nhưng y đã vấp phải một cái rễ cây.
      Isoif đã ngã vì Isoif. [3]
      Kerensky, tuy trước đây cũng là kẻ thù của Stalin, vẫn còn sống ở đâu đó nhưng Kerensky không đáng cho y để ý đến nữa. Với Stalin, dù bây giờ Nicholas Đệ nhị hay Kolchak có sống lại cũng vậy thôi, y không thấy thù hận gì với hai người này, họ là những kẻ thù công khai của y, họ không lẩn tránh để rồi bày đặt thực hiện một chế độ xã hội tốt đẹp hơn chế độ xã hội của Đại Lãnh tụ Stalin.
      Một chế độ xã hội tốt đẹp hơn? Một chế độ xã hội khác với chế độ xã hội của Stalin? Mẹ kiếp. Ai có thể thành lập được chế độ xã hội mà không có Stalin? Vô lý.
      Đó không phải là vấn đề Tito có thành công hay không. Làm sao tên ngu đần đó có thể thành công cho được. Nhất định là thế rồi. Stalin nhìn Tito như một ông bác sĩ già ở đồng quê, đầy kinh nghiệm, từng mổ không biết bao nhiêu là bộ phận trong cơ thể những người bệnh, trong những túp lều không có lò sưởi, trên những tấm ván đặt ngay bên cạnh đường đi, nhìn một chú y sĩ tập sự bận áo trắng loay hoay giải phẫu.
      Những công trình do Lênin để lại đã được đổi mới ba lần, những lý thuyết của Marx và Hegel đã được sửa lại hai lần. Tất cả những kẻ không đồng ý với Stalin, những kẻ được nhắc đến từ thời Lênin còn sống, những kẻ đòi thực hiện xã hội chủ nghĩa theo những đường lối khác với chủ trương của Stalin đều ngủ yên dưới đáy mồ, đều đã bị quên lãng, khi từ cả những cánh rừng xa xôi nhất ở miền Bắc không còn vang lại qua một hoài nghi, một chỉ trích nào, đột nhiên Tito từ trong bóng tối chui ra với lão lý thuyết gia – tín điều Kardel và tuyên bố chủ nghĩa xã hội cần được thực hiện theo một lối khác.
      Nghĩ tới đây Stalin nhận thấy con tim y đập mạnh hơn, mắt y mờ đi và toàn thân y có những cái co giật bắp thịt khó chịu.
      Y cố gắng điều hòa nhịp thở. Y đưa tay vuốt mặt và sờ nhẹ bộ ria mép. Y không thể bỏ qua được. Nếu y chịu bỏ qua, Tito sẽ làm cho y mất hoan lạc trong những năm cuối cùng của đời y, sẽ làm cho y ăn mất ngon ngủ mất yên.
      Khi mắt y đã nhìn rõ lại, một lần nữa Stalin lai nhận thấy cuốn sách hai bìa màu đen đỏ nằm trên bàn. Cuốn sách này không có tội gì cả. Stalin với tay cầm cuốn sách mở ra xem và y tỏ vẻ hài lòng, y đặt lại cái gối dựa để thoải mái hơn, và y lại nửa nằm, nửa ngồi với cuốn sách mở trên tay trong nhiều phút.
      Đây là cuốn sách được ấn hành nhiều chục triệu cuốn, được dịch ra 10 tiếng Âu Châu, nhan đề của nó là: “Tito, tên phản bội” và tác giả của nó là Renaud de Jouvenel – (Nội dung cuốn này giá trị ở chỗ tác giả, một người Pháp, một người có cái tên quý phái, đã đứng ngoài cuộc tranh chấp, đã tỏ ra hoàn toàn vô tư và khách quan) - Stalin đã đọc kỹ cuốn sách này trước đó ít ngày và cũng như đối với những cuốn sách làm y khoan khoái, y vẫn để nó quanh quẩn bên mình y. Cuốn sách này sẽ làm cho tên độc tài tàn ác, hèn nhát, gian trá đó phải mở mắt. Tên phản bội dơ dáy. Tên ngu đần đệ nhất thiên hạ. Điều đáng giận nữa là cả những đảng viên Cộng sản ở Tây Âu cũng có nhiều người bị tên phản bội này làm hoang mang. Lão André Marty – già đầu rồi mà còn ngu si, lão đã bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Pháp – đã lên tiếng bênh vực Tito.
      Y lật dần những trang sách. Những sự thực được ghi rõ ở đây. Sau khi đọc cuốn này, không ai còn có thể ca tụng được tên phản bội Tito nữa: Sự thực là đã hai lần vì hèn nhát, Tito đã muốn đầu hàng quân đội Đức Quốc Xã, nhưng Arso Jovanovich, Tổng trưởng Bộ Nhân viên, đã ép buộc Tito phải ở lại chức vụ Tổng Tư lệnh. Arso đã bị giết, Petrichevich cũng bị giết: “Bị giết vì yêu mến Stalin.” Sách ghi như thế. Ở khắp nơi người ta giết lẫn nhau, những người tốt nhất bị giết chết trước nhất, bọn người xấu xa nhất được để dành cho Stalin giết.
      Tất cả sự thật đều nằm trong sách này, tất cả – Tito rõ ràng là một tên gián điệp của bọn Ăng-lê, bằng chứng là hắn tỏ ra kiêu hãnh với những chiếc quần soọc trắng đi vớ cao tới đầu gối bắt chước bọn Ăng-lê của hắn, hắn tỏ vẻ vênh vang với những huy hiệu hoàng gia thêu trên ngực áo, trên mũ hắn, người ngợm, mặt mũi hắn trông ghê tởm, y như là tên Goering, hắn còn khoái phô trương lòe loẹt, nào là cả trăm huy chương trên ngực, nào là nhẫn kim cương đeo ở ngón tay (với một gã dốt nát về binh pháp như hắn còn có cái gì để mà kiêu căng nữa?)
      Một cuốn sách vô tư đứng đắn. Không rõ Tito có tật xấu nào về tình dục chăng? Chuyện đó cũng cần viết vào đây chứ!
      “Đảng Cộng sản Yugoslav nằm trong tay bọn sát nhân và bọn gián điệp. Tito chỉ có thể nắm được quyền lãnh đạo nhờ có Béla Kun và Traicho Kostov ủng hộ.”
      Kostov! Cái tên này làm cho Stalin khó chịu đến là chừng nào. Cơn giận cuồn cuộn chảy trong máu y. Y đá mạnh chân y ra như y đá vào mặt tên khốn kiếp Kostov. Và đôi mi mắt xám của Stalin rung động vì cảm giác công lý đã được thi hành.
      Tên Kostov đốn mạt, tên chó đẻ dơ dáy.
      Và giờ đây khi hồi tưởng, Stalin thấy rõ những thủ đoạn của bọn khốn kiếp đó. Y đã tự hóa trang một cách tài tình, khéo léo. Y đã thắng được Bela Kun vào năm 1937 nhưng mới trước đây có mười ngày, Kostov đã làm ô danh tòa án Xô Viết, bằng thủ đoạn tráo trở thâm độc của hắn. Stalin từng thành công rực rỡ trong nhiều vụ kết án ly kỳ, không biết bao nhiêu kẻ thù của y đã bị y làm cho thành hèn hạ, tự hạ và thú nhận những tội lỗi đểu giả nhất – vậy mà y đã thất bại trong vụ kết án Kostov. Đó là một xấu xa nhục nhã cho chế độ xã hội vì vụ này bị cả thế giới biết. Kostov trong lúc bị thẩm vấn đã lừa được cả những chuyên viên thẩm vấn kinh nghiệm nhất, hắn khóc lóc, van xin, hắn lê gối lạy lục – để rồi khi ra trước phiên tòa xử công khai, trước mắt những thông tín viên ngoại quốc được mời đến nghe hắn thú tội, Kostov đã chối tất cả, chối hết. Hắn không còn biết gì đến liêm sỉ. Lương tâm đảng viên cộng sản của hắn để đâu? Còn đâu là tình đoàn kết vô sản thiêng liêng? Hắn chết nhưng hắn phải biết chết có lợi gì cho đảng mới phải chứ?
      Stalin ném cuốn sách xuống bàn. Không, y không thể nằm yên ở đây được. Y phải tiếp tục chiến đấu.
      Một quốc gia không lo âu có thể ngủ yên nhưng vị cha hiền của dân tộc không thể ngủ được, Stalin đứng dậy nhưng không đứng thẳng hẳn người. Y mở cánh cửa thứ hai trong phòng – cánh cửa này không phải là cánh cửa hồi nãy Poskrebychev thò đầu vào – bước qua và khóa cửa lại. Y lê chân đi qua một hành lang hẹp, quanh co, không có cửa sổ, hành lang được soi sáng bởi những miếng kiến lợp bên trên, y đi ngang những tấm gương soi chỉ thông suốt có một chiều: Y có thể nhìn qua gương ra bên ngoài nhưng người bên ngoài không thể nhìn được vào trong, để vào phòng ngủ. Phòng ngủ này cũng hẹp, trần thấp, không cửa sổ, cũng có máy điều hòa không khí. Phòng này có những tấm thép dày gắn trong vách gỗ dát kín bốn bức tường và bên ngoài là đá đảng.
      Dùng chiếc chìa khóa nhỏ xíu đeo ở dây lưng Stalin mở nắp kim khí của một bình đựng rượu và rót chất rượu kích thích mà y thích uống nhất và một chiếc ly nhỏ, y uống cạn ly rượu ấy rồi lại khóa nắp bình rượu lại.
      Đi tới đứng trước gương, y soi mặt y trong gương. Đôi mắt y trong, sắc và nghiêm kinh khủng. Ngay cả những vị Chủ tịch Hội đồng Nội các cũng không sao giữ được trầm tĩnh trước đổi mới này. Bên ngoài của y nghiêm trang, đơn giản, đúng là bên ngoài của một lãnh tụ.
      Y nhấn chuông gọi tên hầu cận người miền Georgia của y vào sửa soạn y phục cho y thay.
      Ngay cả trước mắt những kẻ hầu hạ luôn luôn ở sát bên y, Stalin cũng tỏ ra trang nghiêm y hệt hình ảnh của y trong lịch sử.
      Lúc nào y cũng là con người thép. Tinh thần, ý chí lúc nào cũng như thép.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #49

       29/7/2011, 10:56

      Ngôn ngữ là dụng cụ của sản xuất
      Đêm là thời gian làm việc tốt nhất của Stalin.
      Bản tính đa nghi của y như một cuộn dây mở dần vào buổi sáng. Trong những buổi sáng âu sầu, y nghi ngờ tất cả mọi người. Y cách chức những tên cần bị cách chức, y cắt giảm những ngân khoản dự chi, y ra lệnh cho hai hoặc ba Bộ tổ hợp làm một. Ban đêm, tinh thần y sáng suốt và mềm dẻo, y quyết định việc gia tăng một số Bộ trong chính phủ lên bằng cách đem một Bộ chia ra thành hai, thành ba Bộ mới, y tìm tên đặt cho những Bộ mới lập, y ký chấp thuận những ngân khoản dự chi mới và y ký sắc lệnh công nhận những nhân viên mới được đặt vào những chức vụ mới.
      Những tư tưởng giá trị nhất thường đến với Stalin vào khoảng từ nửa đêm đến bốn giờ sáng. Vào thời gian này, y nghĩ ra cách phát hành quốc-trái-phiếu mới thay thế những quốc-trái-phiếu cũ để tránh phải trả tiền lời cho những kẻ có quốc-trái-phiếu, y quyết định đạo luật trừng phạt những kẻ trốn lao động, y nghĩ ra những biện pháp kéo dài số giờ làm việc trong ngày và số ngày làm việc trong tuần, biện pháp buộc chặt bọn nông dân và công nhân vĩnh viễn vào những công việc họ đang làm, những đạo luật về tù khổ sai và cấm cố, cũng trong khoảng thời gian đêm khuya này, y quyết định giải tán Đệ Tam Quốc Tế và đặt kế hoạch lâu dài lưu đày bọn phản bội đến Tây Bá Lợi Á. [4]
      Kế hoạch lưu đày một số người gồm đủ mọi quốc tịch lên vùng băng tuyết ấy để cho họ tạo thành một chủng tộc riêng là một thí nghiệm trong những thí nghiệm táo bạo nhất của Stalin, một đóng góp trong những đóng góp lớn nhất của Stalin cho nhân loại, nhưng giờ đây y chẳng còn gì để làm cho kế hoạch đó nữa. Suốt đời y, Stalin là người nhìn xa, thấy rộng nhất trong lịch sử Xô Viết.
      Y còn là cha đẻ ra nhiều đạo luật giá trị đáng kể khác nữa. Tuy vậy, y thấy còn những nhược điểm trong toàn thể hệ thống cơ cấu tổ chức xã hội và những đạo luật mới vẫn tiếp tục thành công trong việc đóng chặt, khóa kỹ tất cả, mọi chống đối đều bị tận diệt, mọi dị biệt đều bị san bằng, mị kẽ hở đều bị bịt kín, tất cả 200 triệu người đều biết họ phải làm gì, nghĩ gì – chỉ còn có bọn trẻ tuổi trong những nông xã sản xuất là thoát ra khỏi vùng kiểm soát mà thôi.
      Tất nhiên là mọi chuyện đều tốt đẹp trong những nông xã. Rất tốt đẹp nữa là khác. Stalin biết chắc như thế sau khi xem phim Nông dân miền Kuban và đọc tiểu thuyết Người kỵ mã sao vàng. Tác giả của cuốn phim và cuốn sách trên đều tới sống ở những nông xã. Họ đã nhìn, đã thấy và ghi lại những gì họ nhìn, họ thấy trong tác phẩm của họ, và rõ ràng là tất cả những gì được ghi lại đó chứng tỏ sự tốt đẹp trong những nông xã. Chính Stalin cũng từng nói chuyện với những nông xã viên khi y đến chủ tọa những đại hội của họ.
      Nhưng vì là một nhà cai trị sâu sắc và có đức tính tự chỉ trích, tự kiểm thảo, Stalin đã đào sâu vào vấn đề hơn những nghệ sĩ kia. Một viên bí thư đảng ủy cấp Tỉnh có lần đã lỡ miệng tiết lộ với Stalin rằng (viên bí thư mau mồm mau miệng này chắc đã bị bắn sau đó) – không phải tất cả đều tốt đẹp ở những nông xã: Những người đàn ông, đàn bà từng ghi tên làm việc trong những nông xã từ năm 1930 đều hăng hái làm việc, nhưng bọn trẻ – tất nhiên không phải là tất cả bọn trẻ, chỉ có một thiểu số vô trách nhiệm mà thôi – sau khi học hết cấp trung học, đua nhau xin sổ thông hành bằng đủ mọi cách bất lương để bỏ nông xã thành phố, Stalin nghe chuyện này và lập tức trong óc y sắp đặt kế hoạch sửa chữa.
      Giáo dục! Chương trình học bảy năm rồi mười năm chung cho tất cả, con cái bọn bồi bếp cũng vào được trường đại học này đã tạo ra một tình trạng lộn xộn, bê bối. Lênin lầm lẫn lớn về điểm này nhưng bây giờ hãy còn quá sớm, chưa phải là lúc nên nói cho quần chúng biết như thế. Lênin chủ trương bất cứ anh bếp nào, chị đàn bà nội trợ nào cũng có thể điều khiển tốt guồng máy nhà nước! Lênin tưởng tượng ra sao mà lại có thể chủ trương kỳ cục như thế? Lại còn cho bọn bồi bếp cái quyền nghỉ làm bồi bếp trong ngày thứ sáu mỗi tuần để đi dự hội thảo trong Ủy ban hành chánh tỉnh! Một chị bếp chỉ là một chị bếp, công việc của chị ta chỉ là việc nấu ăn. Còn việc cai trị cần phải có những người có biệt tài, việc cai trị chỉ có thể trao cho một số người đặc biệt nào đó đã được chọn lọc kỹ và được thử thách trong nhiều năm. Và việc điều khiển số người đặc biệt này chỉ có thể nằm trong tay một người. Người đó là Lãnh tụ.
      Quy chế tổ chức nông xã phải có ghi điều đó, cũng như điều đất đai vĩnh viễn thuộc về những xã viên, bất cứ ai ra đời trong một làng quê, ngay từ lúc vừa lọt lòng mẹ, đã là một xã viên. Và chỉ có ủy ban hành chánh của nông xã mới có quyền cho phép một người đi khỏi nông xã.
      Dường như có một kẻ nàng đó trong số những kẻ gọi là khuynh tả đã có nói đến vấn đề như thế sẽ xảy ra ở các nông xã. (Thực ra, nhóm gọi là “khuynh tả” không hề có thực, chính Stalin bày ra chuyện gọi một số người bằng cái tên đó để khi cần đến thanh toán họ cho dễ).
      Không biết vì sao người ta thường thấy bọn kẻ thù của Stalin, bọn chủ trương khác với Stalin, hay nói đúng về nhiều chuyện. Những kẻ ấy đều đã chết. Nhưng Stalin như vẫn nghe thấy tiếng họ nói từ dưới đáy mồ vắng về.
      Mặc dù việc ban hành những sắc luật mới về nông xã là cần thiết, cũng như rất nhiều sắc luật mới cần ban hành trong mọi địa hạt, đêm nay khi bước vào văn phòng, Stalin cảm thấy tâm trí y bị lôi cuốn vì một vấn đề mơ hồ hơn.
      Đại ka Forum
      Vip Member

      Gender : Nữ

      Posts : 7493

      Points : 116345

      Liked : 7676

      : 18/04/1993

      #50

       29/7/2011, 10:56

      Trên ngưỡng cửa những năm sắp tám mươi tuổi, Stalin thấy rằng y không có quyền hoãn lại những việc cần làm này lâu hơn nữa.
      Người khác có thể nghĩ rằng tất cả mọi việc có thể làm được để giữ cho Stalin bất tử đều đã được làm, nhưng với Stalin – mặc dù đã được những người đồng thời suy tôn là Lãnh tụ vĩ đại nhất, người anh minh nhất, tài ba nhất – những suy tôn đó, những lời ca ngợi đó vẫn chưa đủ, y còn xứng đáng được suy tôn hơn thế nhiều. Y thấy sự thán phục của mọi người đều nông cạn, họ vẫn chưa thấy rõ thiên tài bao la của y.
      Trong những ngày gần đây, một ý nghĩ thường ám ảnh Stalin: Thực hiện một thành công vĩ đại nào đó trong địa hạt khoa học để có thể nổi tiếng ngoài địa hạt triết học và lịch sử. Tất nhiên là y có thể thành công rực rỡ trong địa hạt sinh vật học nhưng y đã trao việc này cho Lysenko, một người lương thiện và cương nghị. Ngoài ra, toán pháp và vật lý hấp dẫn Stalin nhiều hơn. Mỗi lần đọc những bài thảo luận về Số Không và Kém-Số-Không đăng trong tập Biện chứng luận về thiên nhiên, y lại cảm thấy ước ao cũng viết được như thế.
      Cũng trong thời gian gần đây, sự tìm tòi làm cho Stalin chú ý đến trường hợp của giáo sư Chikobava, trường hợp này làm cho y chú ý đến ngôn ngữ học. Giáo sư Chikhobava vừa viết một cuốn khảo luận về ngôn ngữ với nội dung chống chủ thuyết Mác-xít, ông chứng minh rằng ngôn ngữ chỉ là tiếng nói của một quốc gia, một dân tộc, ngôn ngữ tự nó không có đặc tính, rõ hơn, ngôn ngữ không thể là “ngôn ngữ vô sản” hoặc “ngôn ngữ tư sản”. Nhiều học giả đã lên tiếng chỉ trích nặng nề Chikhobava và vào giờ này, nhà ngôn ngữ học hỗn xược đó chỉ còn có nước ngồi chờ nhân viên Mật vụ KGB đến nhà gõ cửa đưa đi.
      Không còn gì có thể cứu được Chikhobava nếu Stalin không đích thân nhấc điện thoại lên và ra lệnh để cho ông ta sống. Stalin để cho Chikhobava sống không phải là không có mục đích: Chính y sẽ lấy ý kiến của nhà ngôn ngữ học này, y sẽ khai triển ý kiến tầm thường đó thành một chủ thuyết rực rỡ với hy vọng chủ thuyết đó sẽ giúp y trở thành bất tử.
      Nếu y có thể đập tan được những lý thuyết phản động của bọn phản cách mạng, như lý thuyết về luật tương đối chẳng hạn, y sẽ làm cho dư luận thế giới rung động hơn, nhưng y đã làm quá nhiều việc, trách nhiệm của y đối với nhân dân thế giới đã quá nặng nề, y không sao còn thì giờ để làm việc đó.
      Thay y phục xong Stalin ngồi vào bàn viết. Y dự định viết một thiên khảo luận về tính chất của ngôn ngữ. Viết chưa được nửa trang y đã thấy mệt. Y ngáp dài và vươn vai. Rồi y đứng dậy đi tới nhìn ô kiếng nhỏ ra vườn. Tấm kiếng này đạn bắn không thủng. Bên ngoài là một khu vườn chỉ có người làm vườn được phép đặt chân vào với một binh sĩ gác. Vào giờ này y chỉ nhìn thấy có sương mù. Y không nhìn thấy những vì sao trên nền trời, cũng không thấy qua một vật gì.
      Ở một mình trong căn phòng kín này Stalin không chút lo âu, y cũng không chút băn khoăn, lo ngại mỗi khi nghĩ tới nửa trái đất kia – nửa trái đất mà y vẫn chưa đặt tay lên được – y cảm thấy y có đủ sức để nắm lấy nửa trái đất đó, bẻ cong nó theo như ý muốn. Y chỉ cảm thấy e ngại mỗi khi y phải đến dự những đại tiệc, khi y phải đi trên khoảng cách từ cửa xe hơi tới cửa tòa nhà, đi một mình lên cầu thang và đi qua hai dãy người – những người đứng kính cẩn đến nhiều khi trở thành khúm núm – quá đông, quá xa lạ. Những lúc ấy Stalin cảm thấy y yếu đuối, không được bảo vệ, y không biết phải dùng hai tay y như thế nào, hai bàn tay đã quá lâu không còn được dùng đến nên đã trở thành vô dụng. Y đặt hai tay lên bụng và mỉm cười. Người ta tưởng nhà độc tài cười vì nhân từ, vì mến họ, nhưng sự thật y cười vì sợ.
      Chính Stalin từng nói rằng không gian là điều kiện căn bản cho đời sống của vật chất, nhưng sau khi đã làm chủ được một phần sáu đất đai toàn trái đất, y bắt đầu kinh sợ không gian. Vì vậy mà y thoải mái sống trong văn phòng chật hẹp này: Ở đây không có không gian.
      Stalin đóng cánh cửa thép sau tấm kiếng và chầm chậm đi trở lại bàn ngồi. Đêm đã khuya quá rồi, ngay cả một thiên tài cũng không còn làm việc được nữa.
      Những sự kiện xảy ra trong cuộc đời không giúp y, không làm y hài lòng, nhưng y vẫn cứ phải làm việc. Những thế hệ sắp tới rồi sẽ biết công trạng của Stalin vĩ đại.
      Tất cả mọi người đều trông cậy vào Stalin. Quần chúng lạ kỳ và nhát sợ quá đáng. Mất bao nhiêu công lao dạy cho họ biết thế nào là dân chủ, nhưng họ vẫn ỷ lại. Nhai sẵn thức ăn mớm cho họ, việc của họ chỉ là việc nuốt vậy mà họ cũng không nuốt nổi.
      Khuôn mặt nâu xám, làn da gợn những vết sẹo đậu mùa cúi xuống những tờ giấy trắng trên bàn, Stalin muốn viết nhưng cảm hứng không đến, y không biết nên viết gì.
      Có tiếng gõ nhẹ ở cửa, Stalin nhấn nút điện mở khóa.
      Bộ mặt anh hề của Sasha hiện ra giữa hai cánh cửa, gã hỏi nhỏ như tiếng thì thào:
      "Yos Sarionich, ông cho phép tôi gọi Abakumov vào hay cho hắn về?"
      "À, Abakumov."
      Mải mê sáng tác Stalin đã quên mất Abakumov
      "Được rồi. Cho hắn vào."
      Y rút chìa khóa ở dây lưng ra mở nắp kim khí một bình rượu khác để sẵn trong ngăn bàn viết và uống một ly rượu nhỏ.
      Lúc nào y cũng phải tỉnh táo, sáng suốt và mạnh như một con chim ưng.

      Chú thích:
      [1]Thống chế Goering : Tư lệnh Không lực Đức Quốc Xã.
      [2]Cheka: Tên tắt để gọi Cơ quan Chrezvychainaya Kommissia, cơ quan mật vụ chuyên dò xét, bắt bớ và khủng bố những người bị coi là phản cách mạng ở Liên bang Xô Viết. Về sau, cơ quan này còn có những cái tên khác là GuePeou hoặc MVD. Nhân viên Cheka bị dân Nga sợ và thù nhất.
      [3]Tito, Thống chế và hiện nay là Thủ tướng chính phủ nước Nam Tư, cũng tên là Iosif (Joseph) như Stalin. Ra đời năm 1891, Tito cũng theo chủ nghĩa xã hội nhưng chống lại chính sách của Stalin, ly khai với Nga Xô. Stalin rất thù vì Tito chống lại bọn lãnh tụ Cộng sản Nga. Có thể nói Tito là mối hận sâu cay nhất của Stalin. Stalin chết không nhắm mắt nổi là vì không hạ được Tito.
      [4]Đệ Tam Quốc Tế là tên gọi tổ chức kết hợp tất cả những đảng cộng sản trên khắp thế giới để hành động hợp nhất. Tổ chức này được thành lập năm 1919 ở Đại hội Mạc Tư Khoa và giải tán năm 1943. Tổ chức này được gọi bằng tiếng Anh là Third International, hoặc Communist International, hoặc Comintern, Komintern.
      #51