Đám đàn bà ngồi quanh chiếc bàn dài sẵn sàng tiếp nhận Nadya vào cuộc nói chuyện nhưng Nadya không muốn nói gì với họ hết. Nàng cũng muốn ngồi một mình để tận hưởng sự sung sướng sắp được gặp chồng trong buổi sáng này, nàng đi đến gần người đàn bà ngồi ở góc phòng:
"Tôi ngồi đây có được không ạ?"
Nàng chỉ xuống chiếc ghế cạnh đó và hỏi. Người đàn bà nhìn lên, đôi mắt hoàn toàn không màu. Bà ta có vẻ như không hiểu câu nói lịch sự của Nadya. Bà ta nhìn như xuyên qua người nàng.
Nadya ngồi xuống ghế, nàng kéo vạt áo caracul nhân tạo che kín ngực rồi cũng ngồi yên lặng.
Lúc này nàng không muốn nghe chuyện gì ngoài chuyện nói về chồng nàng, nàng không muốn nghĩ đến bất cứ chuyện gì ngoài nghĩ về chồng nàng. Và về những chuyện lát nữa đây vợ chồng nàng sẽ nói với nhau. Những chuyện đã chìm trong quá khứ và mờ mịt trong tương lai. Những chuyện không những chỉ liên can đến một mình chàng hay một mình nàng mà là liên can đến cả hai người. Những chuyện mà người ta thường gọi là "tình yêu".
Nhưng nàng không thể không nghe câu chuyện đang được nói ở quanh chiếc bàn kia. Những người đàn bà ngồi đó đang bàn tán tới chuyện chồng họ được ăn những món gì mỗi ngày, mấy ngày chồng họ được tắm, được giặt quần áo một lần. Họ có vẻ biết rành những chuyện ấy. Tại sao họ lại biết được nhỉ? Trong những lần gặp chồng họ, họ hỏi về những chuyện ấy ư? Họ đang kê khai số lượng và giá tiền những thực phẩm họ mang đến cho chồng họ hôm nay. Với sự kiên nhẫn tỉ mỉ của họ, những người đàn bà đó làm cho những gia đình trở thành gia đình và giữ cho loài người khỏi bị tận diệt. Họ không có lỗi gì cả khi sáng nay Nadya nghĩ khác. Nàng bất mãn vì thái độ chấp nhận quá đơn giản của họ. Nàng nghĩ: Họ thật ngu, thật đáng thương. Họ biến những giây phút quý báu, thiêng liêng thành một cái gì thật tầm thường. Họ không bao giờ nghĩ đến chuyện tại sao người ta lại bỏ tù chồng họ, ai đã dám bỏ tù chồng họ? Nếu chồng họ không phải tù, họ sẽ không phải khổ sở vì việc lo sao có những thức ăn này.
Họ sẽ còn phải chờ lâu. Cuộc thăm định trước vào lúc 10 giờ sáng nhưng bây giờ đã 11 giờ rồi vẫn chưa thấy gì cả.
Người đàn bà thứ bảy, một bà tóc đã xám bạc, đến muộn hơn tất cả. Bà này vừa đi vừa thở. Nadya từng gặp bà này trong một lần đi thăm trước đây. Bà này là người vợ thứ nhất của anh thợ điêu khắc và bà sẵn sàng kể chuyện về đời tư mình cho bất cứ ai muốn nghe. Bà vẫn tôn thờ ông chồng, vẫn coi chồng như một thiên tài nhưng ông chồng bà đã bỏ bà để đi sống với một ả tóc hung vàng mặc dù họ đã có ba con với nhau. Sau ba năm chung sống chung với ả tóc hung ông chồng nhập ngũ đi ra mặt trận chiến đấu. Vừa ra tới mặt trận y đã bị bắt làm tù binh và đưa sang Đức ngay. Ở bên Đức, tuy là tù binh, y sống tự do và dường như là y còn đủ thì giờ để lấy một cô vợ Đức. Từ Đức trở về, y bị bắt ở biên giới và kết án mười năm tù. Ở trong tù, y nhắn cho ả tóc hung biết là y bị tù và yêu cầu ả tiếp tế, nhưng ả nói: "Chẳng thà anh phản bội tôi thì tôi còn có thể tha thứ cho anh, nhưng anh phạm tội tổ quốc thì không thể tha cho anh được…". Sau đó anh thợ điêu khắc xin người vợ trước tha thứ, y được tha thứ và được vợ đến thăm, gửi đồ nuôi đều đều – giờ đây y nói và y chỉ yêu vợ và sẽ yêu vợ mãi mãi.
Nadya nhớ đến những lời cay đắng của người đàn bà tóc xám từng bị chồng bỏ này là khi có chồng ở tù, việc làm tốt nhất cho người đàn bà là "ngủ với trai", để "khi nào hắn được ra hắn sẽ trọng mình. Nếu không như thế hắn sẽ nghĩ là đàn ông không ai thèm muốn mình, hắn sẽ cho mình là quá tệ…".
Và giờ đây, người đàn bà tóc xám mới đến đã làm thay đổi đề tài cuộc nói chuyện ở quanh chiếc bàn dài. Bà ta đang kể lể những rắc rối của bà với bọn luật sư ở cái sở gọi là Trung tâm Cố vấn Pháp luật ở phố Nikolsky. Trung tâm này được gọi là một "kiểu mẫu". Bọn luật sư ở đấy lấy cả ngàn đồng ruble của thân chủ và chăm chỉ lui tới những hàng ăn sang nhất Mạc Tư Khoa trong khi tình trạng được thân chủ nhờ giải quyết thì vẫn được chúng để nằm nguyên chỗ cũ, nghĩa là không biết ở chỗ nào hết. Thế rồi sau một thời gian hành nghề cố vấn như thế, bọn luật sư này đi quá trớn và cả lũ dắt díu nhau đi tù với những án tù 10 năm. Thế rồi những luật sư khác tới, mở những văn phòng cố vấn pháp luật khác và lại lấy những khoản tiền lớn của thân chủ. Những luật sư này giải thích bằng một giọng bí mật rằng họ cần lấy nhiều tiền vì không phải là họ được ăn một mình, họ còn phải chia với nhiều người nữa. Họ chia với ai và họ có chia hay không, điều đó những thân chủ của họ không sao có thể biết. Những người đàn bà khổ sở có chồng tù tội chỉ biết đóng tiền và chạy đi lại giữa những tấm lưới luật pháp trùng trùng điệp điệp, họ bất lực trước những tấm lưới này cũng như họ bất lực trước bức tường cao vút của nhà tù Butyrskaya – họ không thể có cánh để bay qua bức tường đó – và họ bắt buộc phải cúi đầu trước tất cả những khung cửa mở cho họ đi qua. Họ nộp tiền cứu chồng không phải là để chờ đợi phép lạ xảy ra – chồng họ được thả – mà là để được mơ rằng phép lạ sẽ xảy ra.
Người đàn bà tóc xám, người vợ của người thợ điêu khắc, có vẻ tin chắc thể nào mình cũng thành công trong việc minh oan được cho chồng. Theo những lời bà ta nói, người nghe chuyện được biết rằng bà ta đã gom góp được số bạc bốn mươi ngàn ruble nhờ tiền bán nhà và tiền vay mượn của bà con, và bà ta đã nộp hết số tiền ấy cho các luật sư. Đã có bốn luật sư giúp bà thực hiện việc minh oan. Đã có ba đơn xin ân xá và bốn đơn yêu cầu xử lại được các luật sư đệ nạp đúng chỗ. Bà ta đã nhận được lời hứa hẹn sẽ cứu xét ở nhiều nơi quan trọng, bà ta biết tên tất cả những ông Biện lý đang tại chức ở ba Công tố viện chính và từng thở hít không khí ở những phòng đợi ở Tòa án Tối cao và Xô Viết Tối cao. Như nhiều người cả tin và cần được niềm tin để sống, bà ta quan trọng hóa giá trị của những lời nhận xét có thiện cảm và những ánh mắt nhìn không ác cảm.
"Mình phải làm đơn, phải gửi đơn khiếu nại cho tất cả mọi người" - bà ta nồng nhiệt nói, thúc giục những người đàn bà khác cũng làm như mình - "Chồng chúng ta đang khổ. Tự do không phải là tự nhiên mà có. Chúng ta phải làm đơn".
Những chuyện đang được nói làm cho Nadya xao lãng dòng tư tưởng của nàng, những chuyện đó cũng làm cho lương tâm nàng thêm xúc động. Nghe giọng nói nồng nàn, tin tưởng của người đàn bà nọ người ta không thể không nghĩ ra rằng bà ta đã tiến xa hơn tất cả và bà ta nhất định sắp dem được ông chồng ra khỏi tù – và người ta tự hỏi: "Tại sao mình lại không làm được như bà ấy? Tại sao mình lại không chịu hết sức…"
Có một lần Nadya đã giao thiệp với một luật sư ở một văn phòng cố vấn pháp luật vừa được nói đến. Với sự chỉ dẫn và giúp đỡ của luật sư này, nàng làm một đơn khiếu nại và gửi đi, nhưng nàng chỉ có thể trả cho luật sư 2.500 ruble. Số tiền này có vẻ quá ít. Luật sư có vẻ giận, tuy y cũng nhận tiền nhưng sau đó y không làm gì cả.
"Phải… Phải" - Nadya bỗng nói lớn nhưng nàng vẫn bình thản như nàng chỉ nói với chính nàng - …Mình đã làm hết những gì mình có thể làm được cho chồng mình chưa? Lương tâm mình có trong sạch không?
Những người đàn bà đang tranh nhau nói ở quanh chiếc bàn dài không nghe thấy tiếng nàng nhưng người đàn bà ngồi cô đơn và yên lặng trên chiếc ghế cạnh nàng quay phắt lại nhìn Nadya như nàng vừa chửi bà ta vậy.
"Còn gì nữa để mà làm?" – Người đàn bà đột ngột hỏi bằng một giọng nặng những ác cảm – "Đây là một cơn ác mộng. Luật số 58 không phải là luật dành cho kẻ phạm tội mà là luật lành cho kẻ thù. Chị không thể mua được chồng chị ra khỏi Luật số 58 dù chị có cả triệu đồng".
Mặt bà ta đầy những nếp nhăn. Giọng nói của bà ta đầy những âm thanh khổ ải không sao chịu đựng nổi.
Trái tim Nadya mở ra với người đàn bà đã có tuổi này. Bằng giọng nói như để xin lỗi câu nói mơ hồ vừa rồi của nàng. Nadya nói:
"Tôi muốn nói là chúng ta chưa làm hết những gì chúng ta có thể làm. Như trước đây vợ của những nhà cách mạng tháng Chạp đã bỏ tất cả để đi theo chồng không chút do dự, không chút hối tiếc. Nếu chúng ta không thể xin được cho chồng chúng ta tự do, biết đâu chúng ta chẳng xin được cho họ đi đày? Tôi có thể chịu được nếu chồng tôi được đi tới một nơi hẻo lánh nào đó, một nơi hẻo lánh ở bất cứ đâu, ở Bắc cực cũng được, nơi không bao giờ có ánh mặt trời. Tôi sẽ đi theo chồng tôi, tôi sẽ bỏ tất cả…"
Người đàn bà với khuôn mặt rầu rĩ của một nữ tu sĩ và bộ áo cũ đến nỗi từng sợi len đan đã rời nhau, nhìn Nadya bằng đôi mắt vừa ngạc nhiên vừa thán phục.
"Chị vẫn còn đủ sức theo chồng chị đi đày ư? Chị còn may mắn và chị hãy còn sung sướng. Tôi không còn chút sức lực nào cả. Tôi không còn làm nổi được bất cứ việc gì. Tôi nghĩ nếu có ông già nào có tiền chịu lấy tôi làm vợ, tôi sẽ lấy…"
Nadya run lên:
"Bà bỏ được ông ấy sao? Bà bỏ được ông ấy trong… đó?"
Người đàn bà nắm lấy tay áo Nadya:
"Này chị… Người ta dễ yêu ở thế kỷ XIX. Những người vợ của những nhà cách mạng tháng Chạp đó – chị nghĩ họ có tinh thần cao ư? Họ hăng say nhiều hơn chúng ta ư? Họ đâu có cần phải làm việc để khỏi bị chết đói? Họ đâu có bị bọn trưởng phòng nhân viên gọi đến bắt kê khai những bản khai an ninh dài dằng dặc? Họ đâu có phải giấu những tờ hôn thú của họ như giấu một thứ bệnh kín? Giấu để còn giữ được việc làm, để cho số tiền năm trăm ruble cuối cùng trong một tháng của họ khỏi bị tước đoạt nốt, để họ khỏi bị sỉ nhục ngay trong phòng riêng của họ, để khi họ đi ra sân lấy nước họ không bị người ta chửi, người ta nguyền rủa với những câu như "kẻ thù của nhân dân". Mẹ đẻ của họ, và chị em ruột của họ, có dùng áp lực ép buộc họ phải ly dị với chồng họ không? Không, trái lại nữa là khác. Họ được mọi người kính nể, thán phục. Cuộc đời và hình ảnh họ được những nhà thơ làm thơ, họ trở thành những hình ảnh đẹp trong những huyền thoại. Họ đi sang Tây Bá Lợi Á theo chồng họ trên những cỗ xe tứ mã, họ đi nhưng họ vẫn còn nguyên cái quyền được sống ở Mạc Tư Khoa, họ vẫn còn là sở hữu của mười mẫu đất, họ đâu có phải lo lắng về những dấu đen trong sổ lao động, hoặc rã rời trước những căn bếp lạnh không có nồi niêu, không dầu mỡ, không một miếng bánh đen. Họ nói: "Đi đây…" thật dễ, mà dễ thật chứ. Dường như chị chưa phải chờ đợi lâu lắm thì phải".
Giọng nói của người đàn bà bật thành tiếng khóc.
Nước mắt chan hòa trong mắt Nadya khi nàng nghe những lời trình bày ghê gớm của người đàn bà ngồi cạnh nàng.
"Chồng tôi đi tù đã gần được năm năm rồi" – Nadya nói như để tự biện hộ – "Trước đó chồng tôi ở mặt trận".
"Đừng hy vọng gì ở chuyện đó".
Người đàn bà hung hãn cướp lời nàng.
"Ở mặt trận không giống như ở tù. Chồng ở mặt trận mình dễ chờ đợi. Lúc đó ai cũng chờ. Lúc đó mình có thể nói chuyện với tất cả mọi người về chồng mình. Đọc thư. Nhưng nếu mình vừa phải chờ vừa phải giấu, vừa phải trốn – làm sao mình sống được?"
Người đàn bà ngừng lại. Bà ta không cần phải nói gì nhiều hơn về tình trạng ấy với Nadya.
Bây giờ đã là 11 giờ 30. Sau cùng, Trung tá Klimentiev bước vào phòng, theo sau là một viên Trung sĩ mập lù, mặt mũi khó khăn. Viên đội này bắt đầu mở những túi đồ, tháo tung những bao bánh, dùng dao cắt những ổ bánh ngọt được làm lấy ở nhà ra làm hai. Y cũng cất ổ bánh nhỏ xíu của Nadya để tìm xem trong đó có giấu thư, tiền, hay thuốc độc. Trong lúc đó, Klimentiev thu hồi giấy phép thăm tù của mọi người, ghi tên họ vào một quyển sổ lớn rồi đứng thẳng người theo kiểu nhà binh, dõng dạc nói:
"Các người chú ý. Tôi chắc các người đã biết luật lệ? Thời hạn thăm là ba mươi phút. Các người không được đưa riêng bất cứ vật gì cho tù nhân, không được hỏi về công việc họ làm, về đời sống của họ. Vi phạm những điều cấm ấy sẽ bị trị tội nặng. Và từ nay trở đi, khi thăm, không được nắm tay, không được hôn. Nếu vi phạm, cuộc đi thăm sẽ bị cắt đứt ngay lập tức…"
Những người đàn bà quen chịu đựng không ai nói gì cả.
Klimentiev đọc tên cặp vợ chồng đầu trên danh sách:
"Gerasimovich… Natalya Pavlovna…"
Người đàn bà ngồi cạnh Nadya đứng dậy, xiết chặt chiếc áo cũ, bà ta đi vào hành lang.
Chú thích:
[1]Anton Chekhov: Văn sĩ viết truyện ngắn nổi tiếng nhất của Nga ở cuối thế kỷ XIX.